Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

XỨ CHƯA KHÁM PHÁ



2006 — XỨ CHƯA KHÁM PHÁ
Giôsuê 3.4
Israel đã ở trong đồng vắng những 40 năm. Giờ đây họ sắp sửa băng qua sông Giô-đanh vào trong Đất Hứa.
“…vì các ngươi chưa hề đi đường này bao giờ” (câu 4). Dân Israel sắp sửa bước vào một vùng đất mới— Một vùng đất mà họ chưa hề sống trong đó. Họ sắp sửa bước vào một con đường mới mà họ chưa hề biết. NHỮNG THAY ĐỔI!
 Thay đổi từ việc được dẫn dắt bởi một trụ mây và một trụ lửa.
 Giờ đây, họ sẽ được dẫn dắt bởi Hòm Giao Ước.
Họ sẽ gặp gỡ. Các thành phố có tường bao phủ; các trận chiến khốc liệt; và những gã giềnh giàng.
“…vì các ngươi chưa hề đi đường này bao giờ” mô tả cuộc phiêu lưu khi bước vào một năm mới. Không một ai biết được năm 2006 sẽ xảy ra việc gì. Năm 2006 là “lãnh thổ chưa khai phá”. Chúng ta sẽ bước vào một vùng đất mới. Chúng ta sẽ đối mặt với cùng những thách thức mà dân Israel đã đối diện với. Năm 2006 sẽ đem lại…
 Những thách thức mới
 Những cơ hội mới
 Những chức vụ mới
 Những điều mới thêm vào trong gia đình
 Những việc làm mới (công ăn việc làm)
 Những cơn đau đầu mới
 Những bạn bè mới
 Những mất mát mới
 Thành viên ban trị sự mới sẽ được thêm vào để lãnh đạo các chương trình âm nhạc và thăm viếng
 Những chức vụ mới mà chúng ta chưa hề trải qua
 Những cám dỗ mới
 Những thử nghiệm mới
 Một thuận lợi mới. Các lớp Trường Chúa Nhật trong nhà thờ mới mà chúng ta chưa hề có trước đây. Các lớp học mới sẽ khởi sự
 Các thuộc viên mới được thêm vào khi hội chúng tăng trưởng – những người mà chúng ta chưa hề gặp.
Tôi tin có ba bài học mà chúng ta sẽ tiếp thu từ Giôsuê 3 giúp đỡ cho chúng ta khi chúng ta phiêu lưu vào khu vực chưa có trên biểu đồ của năm 2006.
I. Chúng ta phải nương cậy vào SỰ HIỆN DIỆN của Đức Chúa Trời (các câu 3-4; 10-15).
 Xuất Êdíptô ký 25.22 — “Ta sẽ gặp ngươi tại đó, và ở trên nắp thi ân, giữa hai tượng chê-ru-bin, trên hòm bảng chứng, ta sẽ truyền cho ngươi các mạng lịnh về dân Y-sơ-ra-ên”.
A. Hòm Giao Ước tiêu biểu cho:
1. Lời của Đức Chúa Trời (Luật pháp)
2. Sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời (Bình đựng ma na)
3. Sự thương xót của Đức Chúa Trời (ngôi thương xót – Đức Chúa Trời tha tội).
4. Đức Chúa Jêsus Christ. Đời sống Cơ đốc không phải là một công thức hay tiêu chuẩn ứng xử. Đây là một Thân Vị! Khi quí vị có Chúa Jêsus, quí vị có mọi sự!
 Nếu quí vị đói … Chúa Jêsus là Bánh Hằng Sống
 Nếu quí vị khát… Chúa Jêsus là Sông Nước Hằng Sống
 Nếu quí vị bị lạc … Chúa Jêsus là đường đi
 Nếu quí vị sai sót… Chúa Jêsus là lẽ thật
 Nếu quí vị cô đơn… Chúa Jêsus là Thiết Hữu còn mật thiết hơn anh em ruột
 Nếu quí vị đau ốm… Chúa Jêsus là Y Sĩ Đại Tài
 Nếu quí vị sắp qua đời… Chúa Jêsus là sự sống lại và sự sống
 Nếu quí vị bị kẹt bẫy… Chúa Jêsus là cánh cửa
B. HƯỚNG MẮT NHÌN VỀ HÒM GIAO ƯỚC! (các câu 3-4).
“Khi các ngươi thấy…hòm giao ước… ĐI THEO SAU” (câu 3).
 Khoảng cách hai ngàn thước giữa hòm giao ước và dân sự (câu 4). Tại sao có khoảng cách ấy? Đức Chúa Trời muốn ai nấy phải nom thấy hòm giao ước.
1. Nếu đám dân đông theo sau quá gần, chỉ có những người ở phía trước mới nhìn thấy hòm giao ước. Mỗi người Israel sẽ bước theo người đứng trước mình.
2. “Tôi sẽ bước theo sau anh! Tôi tưởng anh đang bước theo sau Hòm Giao Ước”. “Không phải tôi. Tôi đang bước theo anh kia. Tôi nghĩ anh ấy đang bước theo sau Hòm Giao Ước”. “Không phải tôi. Tôi chẳng thấy cái gì cả trong nhiều ngày. Tôi bước theo sau anh kia. Anh ta hành động giống như anh ta biết nơi mà mình sẽ đi vậy”.
LỜI CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, ngày nay cũng chỉ có con với Ngài; Ngài cả thể hơn con, vì Ngài biết con được nắn nên bởi giống gì. Vì vậy, nếu Chúa không phiền, con sẽ lần theo ở sau Ngài, vì con chưa biết đường nầy bao giờ. Và con hy vọng rằng đến cuối ngày, khi con đặt đầu mình trên gối, con sẽ không cuộn mình vào thứ gì sẽ lấy đi phần còn lại của cuộc đời con. Cách duy nhất có thể xảy ra đối với con là không để ý Ngài đang bước đi tới đâu. Lạy Chúa, nguyện con không nhìn lên và nhìn thấy con đang đứng ở đây và Ngài đang đứng ở đàng kia! Nếu sự ấy xảy ra, làm ơn chờ con bắt kịp Ngài. Amen!
II. Chúng ta phải nương cậy vào QUYỀN PHÉP của Đức Chúa Trời (đọc các câu 5, 15-17).
 Đây là phần thử nghiệm thực sự của ĐỨC TIN… Chống lại lối lý luận của con người! Dường như là dại dột khi dấn thân vào sông Giô-đanh hay tràn bờ. MỘT BƯỚC của đức tin!
A. Quyền phép của Đức Chúa Trời được vận hành bởi đức tin của các thầy tế lễ đặt nơi Lời của Đức Chúa Trời.
1. Đức Chúa Trời không nói cho chúng ta biết các thầy tế lễ đang mang loại giày nào, vì đây không phải là loại giày ma thuật có thể khiến cho nước rẽ ra.
2. Đức Chúa Trời không nói cho quí vị biết tên tuổi của các thầy tế lễ nào đã khiêng hòm giao ước, vì đây là quyền phép của Đức Chúa Trời, và họ chưa tiếp nhận sự vinh hiển.
B. Mùa gặt (câu 15). Thời điểm khó băng qua sông.
1. Bài hát. “Chúa Jêsus là chiếc cầu qua cơn bão tố”. Ngài không phải là chiếc cầu bắc qua những hoạn nạn, mà Ngài mở một con đường QUA những hoạn nạn đó.
2. Hết thảy chúng ta phải băng qua dòng nước hoạn nạn. Không một người Israel nào được miễn trừ.
3. Những dòng nước hoạn nạn rất là rùng rợn. Không nghi ngờ chi nữa, phần nhiều người Israel đều run sợ khi họ vội vã băng qua dòng nước đang trào sôi muốn phủ lút họ.
4. Nhưng hòm giao ước đã ở đó với họ. Ngay chính giữa dòng nước hoạn nạn của sông Giô-đanh, là hòm giao ước. Trong khi hòm giao ước hiện diện ở đó, họ được an toàn! Dòng nước không úp phủ trên hòm giao ước được!
III. Chúng ta phải nương cậy vào LỜI HỨA của Đức Chúa Trời (câu 7).
A. Giống như Đức Chúa Trời đã ở với các thánh đời xưa, Ngài hiện diện với chúng ta hôm nay.
B. Đức Chúa Trời có thể gửi đến cơn phấn hưng; Đức Chúa Trời có thể cứu hạng tội nhân cứng lòng; Đức Chúa Trời có thể tiếp trợ cho mọi nhu cần của chúng ta; Đức Chúa Trời có thể vá lại những gia đình đã tan vỡ.
C. Đức Chúa Trời không suy yếu trải qua nhiều năm tháng. Quyền phép của Ngài không hề giảm đi chút nào. Chính đức tin của chúng ta đã trở nên yếu đuối hơn.
TÓM TẮT. Dân Israel đã bước vào một lãnh thổ chưa từng biết giống y như chúng ta đang bước vào đấy thôi. Israel đã tin vào những gì Đức Chúa Trời đã phán khi đưa họ đến đó. Cũng một thể ấy với chúng ta!
Loài bướm sâu bông tai [monarch butterfly] di trú đến một khu vực núi non xa xôi ở miền Trung Mễ Tây Cơ vào mùa hè qua. Các nhà khoa học đã tìm thấy 16 địa điểm, chia ra mỗi địa điểm từ 1 đến 10 mẫu Anh, trong vòng bán kính 100 dặm, ở đó hàng triệu triệu con bướm đến từ Bắc Mỹ để qua mùa Đông. Không một ai biết loài bướm làm cách nào để tìm đường đến những vùng đất như ở đây. Mỗi thế hệ mới đều di trú đến cùng một địa điểm. Chúng chưa hề sống ở đó bao giờ. Có điều chi đã được lập trình trong thân thể nhỏ bé của chúng hướng dẫn chúng đến địa điểm mà chúng chưa bao giờ biết.
Chúng ta không có “trụ lửa”, hay một hòm giao ước để theo sau như người Do thái đã có. Tuy nhiên, chúng ta có một hệ thống hướng dẫn tốt hơn: (1) Chúng ta có Đức Thánh Linh đang ngự ở bên trong; (2) Chúng ta có Lời thành văn của Đức Chúa Trời cảm thúc.
Có lẽ Đức Chúa Trời đang kêu gọi quí vị làm một việc gì đó trong năm 2006 mà quí vị chưa hề làm trước đây.
 Được cứu rỗi
 Chịu phép báptêm
 Phúc đáp sự kêu gọi bước vào chức vụ trọn đời.
 Nhập học Trường Kinh Thánh.
 Dấn thân vào ca đoàn
 Khởi sự dâng phần mười
 Bắt đầu làm chứng, đưa dẫn linh hồn về với Chúa.
 Dạy lớp Trường Chúa Nhật
Hãy tin cậy Đức Chúa Trời đưa quí vị đến với phần việc của mình. Quí vị bước bước thứ nhứt, còn Đức Chúa Trời sẽ lo phần còn lại.
 Hãy nương cậy vào SỰ HIỆN DIỆN của Ngài; hãy nương cậy vào QUYỀN PHÉP của Ngài; hãy nương cậy vào LỜI HỨA của Ngài.

NHÌN!



I CÔRINHTÔ 11.23-32
NHÌN!
Bây giờ là cuối năm. Đối với một số người trong quí vị, đây là một năm rất khó khăn. Đối với một số người trong quí vị , đây là một năm tốt lành. Đối với hầu hết chúng ta, đây chỉ là một năm khác nữa mà thôi.
Trong lý trí của quí vị, năm nào đang có ở đó? Sau đây là một số năm có trong lý trí của tôi:
 1947 – Tôi chào đời.
 1952 – Tôi vào mẫu giáo.
 1964 – Tôi tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa và lấy bằng lái xe.
 1965 – Tôi tốt nghiệp Trung học
 1969 – Tôi tốt nghiệp Đại học lần đầu tiên
 1970 – Gặp gỡ Dottie và lên kế hoạch.
 1972 – Thành hôn
 1973 – David ra đời.
 1975 – Mark ra đời.
 1976 – Tôi được tấn phong. Đúng 30 năm kể từ ngày 23 tháng Giêng.
 1977 – Donna ra đời.
 2000 – Hành trình truyền giáo sang Suriname
 2004 – Mẹ và Bố tôi qua đời, tôi bị đau, chịu giải phẫu.
 2005 – Hành trình truyền giáo sang Brazil
Quí vị cũng có thể kể ra một số năm và các sự cố. Nhưng những gì chúng ta chưa biết là những gì năm 2006 sẽ đem đến cho chúng ta. Chúng ta sửa soạn như thế nào để đối diện với những gì năm nầy sẽ đem lại dù tốt, dù xấu, hay bình thường?
Hôm nay không những là ngày đầu năm, mà hôm nay cũng là ngày Chúa nhựt đầu tiên của tháng nữa. Nói như thế có nghĩa là chúng ta sẽ cử hành tiệc thánh. Có một phương thức nhất định chúng ta sẽ tiếp cận bàn tiệc của Chúa. Khi chúng ta đến với bàn tiệc của Chúa, chúng ta cần phải nhìn:
LUI LẠI – Các câu 23-25
TỚI TRƯỚC – Các câu 26
VÀO BÊN TRONG – Các câu 27-32

Khi chúng ta bắt đầu năm 2006, chúng ta cần phải:
NHÌN LUI LẠI
NHÌN TỚI TRƯỚC
NHÌN VÀO BÊN TRONG
Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét ba cái nhìn nơi bàn tiệc của Chúa.
NHÌN LUI LẠI – Các câu 23-25
Có một số điều không theo quy tắc nào hết trong cách thức người thành Côrinhtô cử hành Tiệc Thánh. Ít nhất là cách ứng xử mà một số người đã có tách ra khỏi tầm quan trọng thuộc linh của Tiệc Thánh. Vì vậy, Phaolô thấy cần thiết phải ôn lại sự dạy của ông trong lãnh vực nầy.
Việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là nhìn lui lại những gì Đấng Christ đã làm cho chúng ta.
Câu 23 – Phaolô đã nhận lãnh sự dạy của mình từ nơi Chúa. Đây là một bài học rất hay cho năm 2006! Phải biết chắc rằng phương thức quí vị sống đời sống của mình trong năm nầy dựa theo những gì Chúa đang dạy cho quí vị trong Lời của Ngài. Quí vị sẽ tự học hỏi Lời của Ngài khi quí vị đọc, nghiên cứu và khi quí vị được nhiều người khác dạy dỗ.
Phaolô đưa chúng ta trở lại với chính cái đêm mà Chúa Jêsus bị nộp.
Sự phản bội thê thảm nhất trong toàn bộ lịch sử, Con của Đức Chúa Trời bị một môn đồ làm phản, đã diễn ra trong đêm đó. Dù vậy, Chúa Jêsus đã nhìn qua bên kia biến cố kinh khiếp nầy và mở ra ký ức mà chúng ta gọi là “Bàn Tiệc của Chúa”, hay “Tiệc Thánh”.
Chúa Jêsus đã cầm lấy bánh. Đó là bánh không men, vì đây là Lễ Vượt Qua.
Câu 24 – Chúa Jêsus đang nói theo nghĩa bóng khi Ngài giơ cao bánh lên rồi nói: “Nầy là thân thể Ta”. Bánh sẽ thúc giục chúng ta nhớ lại rằng thân thể của Chúa đã vỡ nát ra để cho chúng ta được tha tội và được sự sống đời đời.
Êsai 52.14 – “…mặt mày người xài-xể lắm hơn kẻ nào khác, hình dung xài-xể hơn con trai loài người”.
Êsai 53.3-6 – “Người đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm, bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người ra gì. Thật người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng ta; mà chúng ta lại tưởng rằng người đã bị Đức Chúa Trời đánh và đập, và làm cho khốn khổ. Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh. Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người”.
Chúng ta nhìn lui lại và nhớ đến thân thể đã bị tan nát vì chúng ta và
Chúng ta nhớ những cú đánh vào mặt và lằn roi quất trên lưng.
Chúng ta nhớ mão gai đội trên đầu, những mũi đinh đóng vào tay chân, và mũi giáo đâm vào sườn.
Chúng ta nhớ những lăng mạ, sĩ nhục ném tạc vào Ngài khi Ngài bị treo trên thập tự giá.
Chúng ta nhìn lui lại và nhớ với lòng cảm tạ mọi sự Ngài đã chịu khổ vì chúng ta.
Câu 25 – Chúa Jêsus cũng cầm lấy chén theo cùng cách ấy.
Huyết là giao ước mới, hay giao ước mới trong huyết của Ngài.
Huyết luôn luôn là đòi hỏi của Đức Chúa Trời đối với một của lễ chuộc tội. Cái mới, ấy là của lễ nầy đã trả giá đầy đủ cho mọi tội lỗi và không còn cần tới của lễ bằng huyết nào khác nữa.
I Phierơ 1.18-19 – “vì biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của chiên con không lỗi không vít”.
Một lần nữa, dự vào chén nầy là phải “nhớ đến” Ngài.
John MacArthur – “Vì người Hêbơrơ cần phải ghi nhớ nhiều hơn là đem một việc vào trong lý trí, để nhớ lại việc đã xảy ra. Ghi nhớ thực sự là phải quay trở lại trong lý trí của một người rồi nắm bắt được sự thực và ý nghĩa của một sự cố hay kinh nghiệm mà người ấy có thể nhớ. Nhớ tới Đức Chúa Jêsus Christ và sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá là hồi tưởng lại với Ngài sự sống, sự thương khó, sự chịu khổ và sự chết của Ngài nhiều như có thể được”. John MacArthur, The MacArthur New Testament Commentary, 1 Corinthians, (Chicago, Moody Press, 1984), pp. 272-273
Giá đã được trả cho tội lỗi của chúng ta. Khi nhớ lại từng chi tiết, điều nầy giúp chúng ta nhìn lui lại và tỏ lòng cảm tạ vì những gì Đức Chúa Trời qua Con của Ngài đã làm cho chúng ta.
NHÌN LUI LẠI – Các câu 23-26
NHÌN TỚI TRƯỚC – Câu 26
Câu 26 – Làm ơn lưu ý từ ngữ “rao” có ý nói tới công bố hay giảng dạy.
Khi quí vị cầm lấy bánh và chén, quí vị đang giảng dạy!
Quí vị đang giảng dạy chính đức tin của mình với thẩm quyền của thân thể Đấng Christ bị tan nát và huyết Đấng Christ đổ ra để trả giá cho tội lỗi của quí vị. Quí vị đang đưa ra lời phát biểu của đức tin!
Đấy là lý do tại sao chúng tôi nói rằng nếu quí vị không dám chắc mình có sự tha tội và sự sống đời đời dựa trên đức tin chỉ một mình Đấng Christ thôi, đừng dự Tiệc Thánh. Hãy để cho người cầm bánh và chén ấy đi qua.
Êphêsô 2.8-9 – “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời".
Mỗi lần quí vị cầm lấy bánh và chén, quí vị đang rao giảng về sự chết của Ngài.
Chúng ta rao sự giảng dạy nầy bao lâu?
Chúng ta cần phải rao điều nầy cho tới khi Ngài đến!
Thực vậy, Chúa Jêsus đã đưa ra một lời phát biểu rất thú vị ở Mathiơ 26.29 – “Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta”.
Đây là một cái nhìn tới đàng trước! Khi chúng ta cầm lấy bánh và chén trong lúc bây giờ, chúng ta đang nhìn tới đàng trước khi dự vào bánh và chén trong tương lai khi Chúa Jêsus ngự đến và thiết lập Vương Quốc của Ngài. Nhìn tới đàng trước là một việc rất kỳ diệu.
Thực vậy, chúng ta cần phải sốt sắng nhìn tới đàng trước vào sự tái lâm của Ngài để rước chúng ta là Hội Thánh của Ngài.
Tít 2.13 – “đang chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ”.
Vì vậy, chúng ta không những nhìn lui lại thập tự giá khi chúng ta dự Tiệc Thánh, mà chúng ta còn nhìn tới đàng trước đến với sự tái lâm của Ngài nữa.
NHÌN LUI LẠI – Các câu 23-26
NHÌN TỚI TRƯỚC – Câu 26
NHÌN VÀO BÊN TRONG – Các câu 27-32
Câu 27 – Chúng ta đối diện với thách thức cực kỳ quan trọng trong mấy câu nầy. Có thể ăn và uống cách không xứng đáng. Trước hết mọi sự, hết thảy chúng ta đều không xứng đáng. Chẳng một ai trong chúng ta xứng đáng với ân điển của Đức Chúa Trời hay xứng đáng để Chúa Jêsus chịu chết vì chúng ta!
Ở đây có ý nói gì khi chúng ta ăn theo cách không xứng đáng. Ăn theo cách không xứng đáng khi người tin Chúa sẽ có những điều sau đây:
 Không xem trọng bánh và chén.
 Không tích cực suy nghĩ về điều mình sẽ làm.
 Để cho tội lỗi bước vào đời sống chúng ta giống như người thành Côrinhtô đã để như thế. Một số người trong họ đã phạm tội mê ăn uống và say sưa. Một số Cơ đốc nhân đến với bàn tiệc với tấm lòng không biết tha thứ và cay đắng. Khi để cho tội lỗi không được xưng ra trong đời sống khi dự Tiệc Thánh là một sự sĩ nhục Đấng đã trả giá cho tội lỗi đó!
Có nghiêm trọng không khi ăn và uống theo cách không xứng đáng? Chúng ta đã phạm vào thân và huyết của Đấng Christ!
Câu 29 – Khi chúng ta ăn và uống với cách không xứng đáng, chúng ta đang mời Đức Chúa Trời kỷ luật chúng ta. Từ ngữ “xét đoán” có ý nói tới sự phán xét hay trừng phạt. Đức Chúa Trời phán xét và hình phạt chúng ta, vì vậy chúng ta đừng để bị xét đoán với những kẻ chưa được cứu. Hãy xem câu 32.
Câu 30 – Đức Chúa Trời xét đoán ai đó với tật nguyền và đau ốm và thậm chí có nhiều người với sự chết nữa. Đức Chúa Trời không phải là độc dữ đâu, Ngài là thánh khiết và công bình. Nếu chúng ta không làm theo những gì là thánh khiết và công bình tại bàn tiệc thánh, Ngài sẽ chỉnh sửa chúng ta.
Câu 31 – Cách tốt hơn cho chúng ta là tự xét đoán mình khi chúng ta đến với Tiệc Thánh. Nếu chúng ta biết lo liệu cho sự việc, thì Ngài không phải lo liệu tới.
Câu 28 – Cho nên. Chúng ta cần phải xét lấy mình khi chúng ta đến với Tiệc Thánh. Chúng ta cần phải nhìn vào bên trong. Tôi đề nghị chúng ta:
 Xét TÁC PHONG của chúng ta. Có phải chúng ta nghĩ về Chúa Jêsus và về sự hy sinh mà Ngài đã làm ra, có phải lý trí quí vị bị phân tâm không?
 Xét ĐỘNG LỰC của chúng ta. Có phải tấm lòng chúng ta trong sạch, không có sự cay đắng hay bất cứ thái độ tội lỗi nào khác?
 Xét PHƯƠNG PHÁP của chúng ta. Có phải trong cách ứng xử của quí vị, có điều chi đó không đẹp lòng Đức Chúa Trời?
Thi thiên 32.5 – “Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi”.
Khi chúng ta đến với Tiệc Thánh, chúng ta hãy:
NHÌN LUI LẠI
NHÌN TỚI TRƯỚC
NHÌN VÀO BÊN TRONG
Và khi chúng ta đối diện với một năm khác, tôi nghĩ thật là khôn ngoan khi chúng ta làm theo đúng việc ấy
NHÌN LUI LẠI
Khi đến với Tiệc Thánh, chúng ta nên nhìn lui lại đến sự chết của Chúa với thái độ biết ơn. Khi chúng ta bắt đầu năm 2006, chúng ta phải nhìn lui lại năm 2005 và thậm chí trước đó nữa với thái độ biết ơn.
Biết ơn đối với Đức Chúa Trời thường bị chễnh mãng, lẽ ra không nên như vậy.
Thi thiên 103.1-5 – “Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen Đức Giê-hô-va! Mọi điều gì ở trong ta hãy ca tụng danh thánh của Ngài! Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, Chớ quên các ân huệ của Ngài. Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi, Chữa lành mọi bịnh tật ngươi, Cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát, Lấy sự nhân từ và sự thương xót mà làm mão triều đội cho ngươi. Ngài cho miệng ngươi được thỏa các vật ngon, Tuổi đang thì của ngươi trở lại như của chim phụng-hoàng”.
Êphêsô 5.20 – “Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta”.
I Têsalônica 5.18 – “phàm làm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy”.
Trong năm 2005, có phải Đức Chúa Trời:
 Tiếp trợ cho mọi nhu cần thuộc thể của quí vị không?
 Chúc phước cho quí vị với gia đình và bạn bè không?
 Ban cho quí vị sự dẫn dắt khi quí vị cần tới sự ấy không?
 Dạy dỗ quí vị từ Lời của Ngài và bởi các Giáo viên Trường Chúa Nhật, các giáo sư Kinh Thánh và các Mục sư không?
 Dạy cho quí vị biết sự yên ủi và sự bình an khi quí vị cần tới chúng không?
 Ban cho quí vị một lượng sức khoẻ không?
 Đang bảo hộ quí vị không?
 Đang yêu thương quí vị không?
Vậy thì hãy quay nhìn lại những phương thức Ngài đã chúc phước cho quí vị trong năm 2005 và hãy dâng lên lời cảm tạ! Chúng ta cần phải hát chung với Fanny Crosby.

Đời đời vinh quang qui thuộc Đức Chúa Trời tôn thánh; Đấng đã vì thế gian tội lỗi phó Con độc sanh,Là Thần Nhân Jêsus vì yêu ta đành chết thế, Để mở toang cửa thiên đàng hầu tiếp rước ta về.
Ô! Thật kỳ diệu thay tình yêu cứu chuộc bởi huyết, Huyết Chúa rửa ác tâm và phiếu trắng trong dường tuyết; Người tội nào thật tâm cầu ơn cứu chuộc vô đối, Tức khắc Jêsus tha tội và cứu sống muôn đời.
Ngàn đời lòng ta ca ngợi Jêsus đầy nhân ái, Chúa cứu và giúp ta đổi mới sống vui từ nay; Và ngàn muôn muôn năm lòng ta chan hoà vui sướng Khi thấy Jêsus và cùng Ngài sống ở thiên đàng.
Ngợi khen Chúa, Ngợi khen Chúa,
Tiếng Chúa gọi ôi thiết thaNgợi khen Chúa, Ngợi khen Chúa,
Tiếng lòng ta khá vui hoà! Nào người nặng tội khiên lòng mong ước được đổi mới! Hãy đến với Jêsus làm hoà với Đức Chúa Trời

Fanny Crosby
Hãy nhìn lui lại và dâng cho Đức Chúa Trời sự vinh hiển vì mọi sự mà Ngài đã làm trong đời sống của quí vị!
NHÌN LUI LẠI
NHÌN TỚI TRƯỚC
Ở bàn tiệc thánh của Chúa, chúng ta rao giảng sự tái lâm của Chúa cho tới lúc Ngài đến.
Chúng ta cần nhìn tới đàng trước đến Năm Mới với sự toan liệu trước.
Ngài đã ban cho chúng ta một năm khác để phục vụ Ngài và để trông đợi sự tái lâm của Ngài.
Có người đã viết:
Tôi là Năm Mới. Tôi là một trang giấy chưa điểm xuyết trong quyển sách thời gian của bạn. Tôi là cơ hội kế tiếp trong nghệ thuật sống của bạn. Tôi là cơ hội của bạn để thực hành những gì bạn đã tiếp thu về cuộc sống trong 12 tháng qua. Mọi sự bạn tìm kiếm trong năm qua và đã thất bại không tìm thấy đã được giấu kín trong tôi; tôi đang chờ đợi bạn tìm kiếm điều đó thêm một lần nữa và với nhiều quả quyết hơn. Mọi sự tốt lành mà bạn đã tìm cách làm cho nhiều người khác mà chưa đạt được trong năm qua đang thuộc về quyền chuẩn nhận của tôi – cung cấp cho bạn thêm một vài ham muốn ích kỷ và tranh đấu.
Trong tôi có sẵn tiềm năng của mọi thứ mà bạn đã mơ tưởng nhưng không dám làm, mọi thứ bạn hy vọng nhưng không dám thực hiện, mọi sự bạn đã cầu nguyện nhưng chưa kinh nghiệm được. Những giấc mơ nầy trôi qua thật nhẹ nhàng, chờ đợi được đánh thức bởi cái chạm của một mục đích bền bĩ chịu đựng lâu nay. Tôi là cơ hội của bạn để làm mới lại mối gắn bó của bạn với Đấng Christ là Đấng đã phán: "Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật" (Khải huyền 21.5). Ta là Năm Mới đây. (Nguồn Vô Danh).

Quí vị có ý tưởng nào về Đức Chúa Trời muốn quí vị phải đạt tới trong năm 2006 không? Đức Chúa Trời có:
Êphêsô 5.15-17 – “Vậy, hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em, chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn ngoan. Hãy lợi dụng thì giờ, vì những ngày là xấu. Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng phải hiểu rõ ý muốn của Chúa là thế nào”.
Hãy nhìn tới trước với Đức Chúa Trời.
 Hãy cầu xin Ngài quí vị cần đạt những mục tiêu nào trong năm nay.
 Hãy cầu xin Ngài quí vị phải dạy dỗ gia đình mình điều chi trong năm nay.
 Hãy cầu xin Ngài những chức vụ nào Ngài muốn quí vị dự vào đều đặn trong năm nay.
 Hãy cầu xin Ngài xem Ngài muốn quí vị phải phục vụ Ngài như thế nào trong năm may.
 Hãy cầu xin Ngài quí vị sẽ mời ai đến với Hội Thánh.
 Hãy cầu xin Ngài xem quí vị sẽ để thì giờ ra với Ngài như thế nào trong năm nay.
Và khi quí vị nhìn tới đàng trước trong năm 2006, phải tỉnh thức trông đợi sự tái lâm của Chúa Jêsus và cư xử sao cho thích nghi.
Mác 13.35-37 – “Vậy, các ngươi hãy thức canh, vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, hay là sớm mai, e cho người về thình lình, gặp các ngươi ngủ chăng. Điều mà ta nói cùng các ngươi, ta cũng nói cho mọi người: Hãy tỉnh thức!”
NHÌN LUI LẠI
NHÌN TỚI TRƯỚC
NHÌN VÀO BÊN TRONG
Giống như quí vị nhìn vào bên trong để tự xét lấy mình trước khi quí vị đến với bàn tiệc thánh, tôi đề nghị quí vị hãy nhìn vào bên trong rồi cầu xin Chúa điều chi cần phải thay đổi ngay trong đời sống của quí vị.
Có những thói tật xấu nào cần phải khắc phục không?
Có những thái độ xấu nào cần phải khắc phục không?
Quí vị đang bước đi gần gũi với Đức Chúa Trời như thế nào và quí vị phải làm gì để đi gần Ngài hơn nữa?
Luca 12.1-3 – “…Hãy giữ mình về men của người Pha-ri-si, là sự giả hình. Chẳng có sự gì giấu mà không phải lộ ra, chẳng có sự gì kín mà không được biết. Vậy nên mọi điều mà các ngươi đã nói nơi tối, sẽ nghe ra nơi sáng; mọi điều mà các ngươi đã nói vào lỗ tai trong buồng kín, sẽ giảng ra trên mái nhà”.
Khi quí vị nhìn tới đàng trước, phải biết chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ cho quí vị nếu quí vị cầu xin.
I Côrinhtô 10.13-14 – “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được. Hỡi kẻ yêu dấu của tôi, vậy nên hãy tránh khỏi sự thờ lạy hình tượng”.
Khi chúng ta tiếp cận với năm 2006 và bàn Tiệc Thánh.
HÃY NHÌN LUI LẠI
HÃY NHÌN TỚI TRƯỚC
HÃY NHÌN VÀO BÊN TRONG

Các giải pháp cho Năm Mới



Các giải pháp cho Năm Mới
Mục sư Woodrow Kroll
Nếu bạn có sở thích giống như tôi, bạn phải đưa ra một số giải pháp cho Năm Mới. "Tôi sẽ làm giảm cân". "Tôi sẽ chuẩn bị hơn trước đây", "Tôi sẽ đọc hết Kinh thánh". Bạn biết phải nhắm vào phương diện nào rồi. Đáng buồn thay, chúng ta có khuynh hướng phá vỡ các giải pháp nầy trong vòng một vài ngày hay vài tuần lễ. Có thể bạn đang cần một số trợ giúp nào đó. Có lẽ chúng ta phải nghĩ tới một vài từ (ít nhất là các giải pháp đều cần tới). Sau đây là ba từ về giải pháp:
Từ thứ nhứt là NHỚ
Có người cho rằng bộ nhớ là thứ nhắc cho người chồng biết về thời điểm kỷ niệm ngày cưới của mình là ngày hôm qua. Hãy biến năm 2004 thành một năm tốt đẹp hơn bằng cách nhớ tới những điều sau đây:
Hãy NHỚ Đức Chúa Trời. "Hãy nhớ lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi…" (Phục truyền luật lệ ký 8.18-20; cũng xem Thi thiên 41.1-2; Truyền đạo 12.1).
Hãy NHỚ tới những điều Đức Chúa Trời đã làm cho bạn. "Hãy nhớ lại những việc lạ lùng Ngài đã làm, các dấu kỳ và đoán ngữ mà miệng Ngài đã phán” (Thi thiên 105.6); cũng xem Thi thiên 77.11-12).
Hãy NHỚ các điều răn của Đức Chúa Trời. "Như vậy, các ngươi sẽ nhớ lại mà làm theo những điều răn của ta, và làm thánh cho Đức Chúa Trời của các ngươi” (Dân số ký 15.39-40).
Hãy NHỚ bạn là ai trước khi Đức Chúa Trời giải cứu bạn. "Khá nhớ rằng ngươi đã làm tôi mọi…" (Phục truyền luật lệ ký 5.15; cũng xem Xuất Êdíptô ký 13.3; Phục truyền luật lệ ký 15.15; Êphêsô 2.8-13).
Nếu bạn chưa thấy hạnh phúc với nơi bạn sinh sống trong đời sống Cơ đốc của bạn, hãy nhớ bạn đã ở đâu trước khi bạn đến với Đấng Christ. Thế rồi hãy đặt tầm nhìn của mình cao hơn năm vừa qua.
Hãy NHÌN vào một từ khác hầu giúp cho bạn đưa ra một giải pháp khả thi nào đó.
Sau đây là một số việc kỳ diệu dành cho bạn và thân hữu của bạn khi nhìn vào năm 2004.
NHÌN XEM Đức Chúa Trời để được cứu. "Nhưng ta, ta sẽ nhìn xem Đức Giê-hô-va, chờ đợi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi ta; Đức Chúa Trời ta sẽ nghe ta” (Michê 7.7; cũng xem Êsai 45.22; Giăng 3.14-17).
NHÌN XEM Đức Chúa Trời khi bạn gặp phải cảnh gian truân. "Các ngươi là kẻ theo sự công bình, là kẻ tìm Đức Giê-hô-va, hãy nghe ta! Khá nhìn xem vầng đá mà các ngươi đã được đục ra, và cái lỗ của hang mà các ngươi đã được đào lên!” (Êsai 51.1; cũng xem Êsai 17.7-8; Mathiơ 11.28-30).
NHÌN XEM đồng lúa đã vàng sẵn cho mùa gặt. "Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt” (Giăng 4.34-35).
NHÌN XEM sự cứu chuộc hầu đến. "Chừng nào các việc đó khỏi xảy đến, hãy đứng thẳng lên, ngước đầu lên, vì sự giải cứu của các ngươi gần tới” (Luca 21.28; cũng xem Hêbơrơ 9.27-28; Philíp 3.20).
Nếu bạn nhìn xem những điều nầy, có những điều bạn sẽ mong nhìn thấy trong năm mới.
SỐNG là từ sau cùng của giải pháp trong năm 2004.
Quyết tâm sống một đời sống mới. Đức Chúa Trời phán: "Hãy tìm kiếm ta, thì các ngươi sẽ sống!" (Amốt 5.4; cũng xem Dân số ký 21.8; Giăng 3.14-18).
Quyết tâm sống một đời sống có đức tin. "Người công bình sống bởi đức tin mình” (Habacúc 2.4; cũng xem Rôma 1.16-17; Galati 3.11; Hêbơrơ 10.38).
Quyết tâm sống một đời sống vâng phục. "Khá tuân thủ các mạng lịnh ta, thì con sẽ được sống" (Châm ngôn 7.2; cũng xem Lêvi ký 18.5; Êxêchiên 18.9)
Quyết tâm sống một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh. "Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống, thì cũng hãy bước theo Thánh Linh vậy” (Galati 5.25; cũng xem Galati 5.16, 22; I Phierơ 4.1-2).
Quyết tâm sống một đời sống tin kính. "Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức" (Tít 2.12).
Quyết tâm sống một đời sống trọn lành. "Hãy cầu nguyện cho chúng tôi, vì chúng tôi biết mình chắc có lương tâm tốt, muốn ăn ở trọn lành trong mọi sự” (Hêbơrơ 13.18).
Quyết tâm sống một đời sống hoà thuận. "Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người” (Rôma 12.18).
Tất cả các loại giải pháp đều có thể thực hiện được, nhưng các giải pháp sẽ hữu ích cho chúng ta nhất, và làm đẹp lòng Đức Chúa Trời nhất, là các giải pháp bắt rễ nơi Lời của Ngài. Năm nay, hãy đưa ra một số giải pháp theo Kinh thánh rồi sống bởi các giải pháp ấy suốt cả năm.
Chúc Mừng Năm Mới!

KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỂ ĐẮC THẮNG TRONG NĂM MỚI



KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
ĐỂ ĐẮC THẮNG TRONG NĂM MỚI

I Côrinhtô 15.57-58. “Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu”.
Chúng ta đã bước vào một Năm Mới. Người ta đang tìm kiếm niềm hy vọng lớn trong năm nay sao cho được tốt hơn năm ngoái.
Đối với nhiều người, đây là thời điểm dành cho sự suy gẫm. Người ta nghĩ tới những thời điểm tốt & xấu trong năm vừa qua. Nhiều tiêu điểm cho Năm Mới và Hy vọng cho nhiều điều sẽ khác biệt đi trong đời sống của họ với một năm của tương lai. Tất nhiên, người ta đã đưa ra nhiều giải pháp è Nhiều phát biểu về dự tính bởi đó họ dự định cải thiện đời sống của họ trong năm sắp tới. Về mặt cá nhân, tôi không phải là người đưa ra những giải pháp. Tôi thích đề ra các mục tiêu, rồi lập chương trình để đạt cho kỳ được các mục tiêu đó.
Là Cơ đốc nhân, tôi tin rằng tư tưởng, lời nói & những lời cầu nguyện của chúng ta trong mấy ngày đầu năm mới 2006 nầy sẽ đề ra bối cảnh hay các cột mốc / Những đường ranh giới cho cả năm.
Quí vị muốn sống như thế nào trong năm 2006? Quí vị muốn làm gì trong năm 2006? Quí vị muốn đời sống mình sẽ khác biệt như thế nào trong năm 2006?
Đây là thời điểm để sửa soạn tấm lòng & tâm trí của quí vị cho sự tin kính và sự hầu việc Đức Chúa Trời được cả thể hơn trong năm 2006. Vì vậy, hãy quyết định ra khỏi con đường mòn thuộc linh của quí vị đi. Hãy quyết định đến gần với Đức Chúa Trời hơn. Hãy quyết định sống trung tín và vâng phục đối với Đấng Christ trong năm mới. Quí vị hãy nắm lấy các chìa khoá cho tương lai của mình, chúng đang ở trong tay của quí vị. Những sự lựa chọn quí vị đưa ra và những hành động quí vị thể hiện trong lúc nầy sẽ quyết định số phận của quí vị trong năm 2006.

I. Trong tiểu đoạn Kinh Thánh gốc của chúng ta, PHAOLÔ CHO CHÚNG TA BIẾT RẰNG ĐẮC THẮNG ĐANG THUỘC VỀ CHÚNG TA. Chúng ta hết thảy đều đang đối diện với nhiều thử thách, hoạn nạn, và nhiều khó khăn trong cuộc sống, nhưng bất luận những vất vả của chúng ta có như thế nào đi nữa, nhận biết sự đắc thắng là chắc chắn, điều nầy rất quan trọng, và chúng ta dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời, vì Ngài ban cho chúng ta sự đắc thắng qua Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta. Thi thiên 34.19: “Người công bình bị nhiều tai họa, nhưng Đức Giê-hô-va cứu người khỏi hết”. 1 Giăng 5.4-5: “vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta. Ai là người thắng hơn thế gian, há chẳng phải kẻ tin Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời hay sao?” Nếu có kẻ có quyền đắc thắng, ắt phải là người tín đồ đã được lại sanh. Có người nói: “Cách ăn ở Cơ đốc không phải là một trận đánh để được chiến thắng, mà đúng hơn, đây là cuộc phấn đấu để giữ lấy chiến thắng mà Đấng Christ đã đạt được rồi cho chúng ta”. Trong Cựu Ước, dân Israel phải chiếm lấy phần đất mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ như một cơ nghiệp. Chúng ta những Cơ đốc nhân đều đã được ban cho sự đắc thắng như một cơ nghiệp, và chúng ta cũng phải chiếm lấy phần cơ nghiệp của chúng ta. Chúng ta phải chiếm lấy với đức tin nơi Lời của Đức Chúa Trời, và với các thứ vũ khí thuộc linh để chiến trận của chúng ta. Quí vị đang có mặt trong đội thắng trận khi quí vị đồng đi với Đức Chúa Trời!
II. KINH THÁNH CHO CHÚNG TA BIẾT RẰNG CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC MẠNH MẼ TRONG CHÚA.
Êphêsô 6.10-11: “Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài”.
Bản dịch Kinh Thánh NLT về I Côrinhtô 15.58 chép như vầy: “Vậy, hỡi anh chị em yêu dấu của tôi ơi, hãy mạnh mẽ và vững vàng, luôn luôn sốt sắng về công việc Chúa, vì anh chị em biết rằng chẳng có gì anh chị em làm cho Chúa mà vô ích đâu”. Hãy mạnh mẽ và vững vàng. Không có Chúa Jêsus chúng ta ra vô dụng, vô hy vọng, và phải bị ở trong địa ngục. Nhưng Đức Chúa Trời không hề dự trù cho chúng ta sống đời sống Cơ đốc một mình, hay bằng sức riêng của chúng ta đâu.
Thi thiên 27.1-4: “Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi tôi: Tôi sẽ sợ ai? Đức Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi: Tôi sẽ hãi hùng ai? Khi kẻ làm ác, kẻ cừu địch và thù nghịch tôi, xông vào tôi, đặng ăn nuốt thịt tôi, thì chúng nó đều vấp ngã. Dầu một đạo binh đóng đối cùng tôi, lòng tôi sẽ chẳng sợ; Dầu giặc giã dấy nghịch cùng tôi, khi ấy tôi cũng có lòng tin cậy vững bền”.
Chính mình Đức Chúa Trời là bạn đồng hành luôn luôn hiện diện với chúng ta. Ngài hiện diện vì chúng ta, Ngài hiện diện với chúng ta, và Ngài đã đến để ngự trong chúng ta qua Thân Vị của Đức Thánh Linh. Vì vậy hãy để Ngài làm đầy dẫy đời sống quí vị với Quyền Phép và Sức Toàn Năng của Ngài.
III. PHAOLÔ DẠY CHÚNG TA PHẢI VỮNG VÀNG, CHỚ RÚNG ĐỘNG è KHÁ VỮNG VÀNG. Hãy mạnh mẽ và vững vàng. Đừng trở thành một Cơ đốc nhân trôi nổi, trồi sụt. Phải trung kiên. Phải vững vàng. Phải sống như một vầng đá. Hãy nhìn xem Chúa và nhìn vào địa vị đắc thắng của quí vị ở trong Ngài.
Galati 5.1: “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa”.
Phải đứng vững và đừng để cho một điều gì đánh hạ quí vị phải té ngã. Hãy nhìn xem Chúa.
Phierơ đã đi bộ trên mặt nước, nhưng rồi ông đã nhìn vào giông tố gầm rống ở quanh ông và bắt đầu chìm xuống nước. Ông kêu la xin cứu giúp và Chúa Jêsus đã đỡ lấy ông. Khi Phierơ đặt bàn tay mình vào bàn tay của Đấng Christ, không làm sao ông bị chìm xuống nước được nữa. Khi quí vị đặt bàn tay mình vào bàn tay của Đấng Christ, không làm sao quí vị bị thua cuộc cho được.
Hãy mạnh mẽ và vững vàng, khá mạnh mẽ và vững chắc trong đức tin của mình.
Đừng trở thành kẻ yếu đuối thuộc linh. Phải trở thành một người nam thực của Đức Chúa Trời. Phải trở thành một người nữ thực của Đức Chúa Trời.
Hãy giữ mình sao cho thích ứng về mặt thuộc linh.
Hãy làm những việc gây dựng sức khoẻ thuộc linh & Sự ổn định cho đời sống của quí vị. Hãy dành thì giờ cho cầu nguyện, tương giao với Chúa. Hãy tiếp cận luôn với Lời của Đức Chúa Trời, cả trong sự tin kính riêng và trong Hội thánh, nơi quí vị nghe giảng và dạy dỗ Lời của Đức Chúa Trời.
Hãy nhóm lại với Hội thánh của quí vị và Tương giao với các Cơ đốc nhân khác, gồm những người khích lệ và giúp đỡ quí vị tấn tới trong Chúa.
Ba việc quan trọng cho con trẻ lớn lên và phát triển. 1) Một bầu không khí yêu thương, 2) Sự trưởng dưỡng thích ứng, 3) Luyện tập. Một con trẻ trong Đấng Christ tìm thấy cả ba điều nầy trong Hội thánh. 1) Tình yêu thương của gia đình Đức Chúa Trời, 2) Dinh dưỡng của Lời Đức Chúa Trời, 3) Luyện tập trong sự hầu việc Đức Chúa Trời và người ta trong danh Chúa Jêsus è Để cho Đức Chúa Trời hành động qua quí vị để làm thoả mãn các nhu cần trong đời sống của người khác.
Nếu quí vị yếu đuối về mặt thuộc linh, Nếu quí vị bị thất bại và ngã lòng, Nếu quí vị bị hạ dễ dàng về mặt thuộc linh, quí vị cần phải gần gũi với Hội thánh luôn. Và tôi khôn có ý nói chỉ có những buổi thờ phượng trong ngày Chúa nhựt thôi đâu. Quí vị cần học hỏi Kinh Thánh. Quí vị cần buổi nhóm cầu nguyện. Quí vị cần những buổi thờ phượng khác nữa của Hội thánh. Khi quí vị dấn thân vào các chương trình và những buổi thờ phượng của Hội thánh, quí vị sẽ tấn tới về mặt thuộc linh, và quí vị có thể tỏ mình ra là trưởng thành trong Chúa bởi sự vững vàng, bởi sự xét đoán rõ ràng, và bởi giải pháp chắc chắn của quí vị.
IV. HÃY DÂNG CHÍNH MÌNH TRỌN VẸN CHO CÔNG VIỆC CỦA CHÚA. Câu 58b: “hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn”, bản Kinh Thánh NLT chép: “hãy luôn luôn [tỏ ra] sốt sắng về công việc của Chúa”.
Nhiều Cơ đốc nhân SẼ KHÔNG BAO GIỜ KINH NGHIỆM SỰ ĐẮC THẮNG trong đời sống của họ vì họ sống đời sống lấy cái tôi của họ làm trọng.
Nếu quí vị sống để làm cho đẹp lòng mình, quí vị sẽ không bao giờ có sự thoả lòng và sự phu phỉ trong cuộc sống. Nhưng nếu quí vị dâng đời sống mình vào việc giúp cho nhiều người khác trong danh của Đấng Christ quí vị sẽ tìm được ơn phước cả thể. Nhu cần lớn lao nhất của người ta ở bất cứ đâu đều là nhận biết Đức Chúa Trời để được cứu rỗi. Ở ngoài Đấng Christ, người ta sẽ bị hư mất. Họ đang ở dưới sự phán xét. Nếu họ chết, họ sẽ chịu sự phân rẽ đời đời đối với Đức Chúa Trời trong chỗ khủng khiếp được gọi là địa ngục. Họ cần được nghe giảng Tin lành nói tới tình yêu cứu chuộc. Họ đang cần Đấng Cứu Thế. Họ đang cần sự sanh lại. Họ đang cần sự tha thứ vì cớ tội lỗi của họ. Và quí vị đang nắm giữ các chìa khoá cho tương lai của họ trong tay của quí vị. Quí vị có thể chia sẻ Đấng Christ với họ và dẫn dắt họ vào sự sống đời đời.
Hãy bước vào làm việc trong vườn nho của Đức Chúa Trời.
Hãy hầu việc Chúa với sự vui sướng.
Hãy dấn thân vào sự phục vụ Đức Chúa Trời trong Hội thánh của Ngài.
Hãy dấn thân vào việc đến với tha nhân bằng tình yêu thương của Đức Chúa Trời.
Khi quí vị dấn thân vào … Sẽ có phần thưởng rất lớn. Ơn phước của Đức Chúa Trời sẽ giáng trên quí vị ngay giờ nầy, và sẽ có một mão triều thiên công bình dành cho quí vị khi quí vị bước vào trong thiên đàng.

SỰ KÊU GỌI CỦA ÁPRAM



SỰ KÊU GỌI CỦA ÁPRAM
Sáng thế ký 12
Phần giới thiệu
. Năm Mới vừa qua cách đây một tuần – Các giải pháp của Năm Mới vẫn còn tươi mới trong tâm trí của bạn (có thể). Có thể bạn đã đề ra nhiều mục tiêu phải đạt được và nhiều ước vọng để hoàn thành. Khi chúng ta nhìn tới năm ở trước mặt có kỳ vọng, phòng hờ lớn lao và có thể một lượng lo toan có cân đối rồi. Và trong khi chúng ta vẫn còn ở trong cái khung lý trí nhìn tới phía trước sáng hôm nay – Tôi muốn thách thức bạn xem xét một số thắc mắc cả bây giờ và xuyên suốt cả năm hầu đến nầy. Đức Chúa Trời đã kêu gọi mỗi một người chúng ta, điều nầy có ý nghĩa gì? Đâu là những lời hứa mà Ngài đã lập với bạn? Và có phải bạn đang trung tín và vâng phục với sự kêu gọi của Ngài, đang tìm kiếm mọi ơn phước của các lời hứa của Ngài? Khi bạn tìm kiếm những giải đáp cho các câu hỏi nầy, bạn được khích lệ và thách thức bởi những gì chúng ta tìm gặp trong phân đoạn Kinh thánh gốc sáng hôm nay về Sự Kêu Gọi của Ápram. Sứ đồ Phaolô trong II Côrinhtô 5.7 nói cho chúng ta biết rằng chúng ta “bước đi bởi đức tin, chớ không phải bởi mắt thấy”. Và nếu từng có một người bước đi như thế, thì đó là Ápram/Ápraham. Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông, Đức Chúa Trời đã lập nhiều lời hứa với ông và Ápram đã bước đi trong sự trung tín vâng phục. Câu 1
Sự kêu gọi của ân điển (1)
Hãy đi!
Lần đầu tiên Đức Chúa Trời phán với một người kể từ thời Nôê, đây là một mạng lịnh dứt khoát rõ ràng – “Hãy đi”. Ápram đang sinh sống tại Urơ xứ Canh-đê với gia đình vào thời điểm Đức Chúa Trời kêu gọi ông. Chúng ta đã lưu ý trong tuần qua ở phần cuối chương 11 họ đã di dời ra khỏi đó rồi, sự kêu gọi trong chương 12 đến trước trong lúc họ vẫn còn ở tại xứ Urơ (Công vụ Các Sứ đồ 7). Hãy lưu ý những điều nầy về sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đối với Ápram.
Thứ nhứt, đây là một mạng lịnh! Đức Chúa Trời không yêu cầu Ápram ra đi. Đức Chúa Trời không nài nỉ ông phải rời khỏi xứ Urơ. Đức Chúa Trời không tìm cách thuyết phục và quyến dụ Ápram phải vâng theo với một mức độ nhanh chóng đâu! Đức Chúa Trời chỉ ra lịnh thôi! Đức Chúa Trời có quyền làm như vậy vì Ngài là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng Tạo Hoá của trời và đất, và Ápram là tạo vật của Ngài. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi, Ngài đòi hỏi sự vâng phục – nếu không có một sự vâng phục nào hết, khi ấy án phạt lớn lao, thậm chí sự chết, đang chờ đợi. Chúng ta cần phải nhớ cho rõ rằng khi Đức Chúa Trời kêu gọi, đó là một mạng lịnh, chớ chẳng phải là một lời đề nghị đâu!
Thứ hai, chúng ta lưu ý, sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đối với Ápram là một sự kêu gọi phải phân rẽ. Ápram cần phải “ra khỏi”. “Ra khỏi quê hương … vòng bà con … nhà cha ngươi”. Hãy lưu ý mạng lịnh có ba phần, càng lúc càng rút lại hạn hẹp hơn. Trước tiên là quê hương của ông – nơi chôn nhau cắt rún, nơi ông ra đời. Thứ hai là gia đình hay bà con của ông. Thứ ba, chính gia đình cật ruột của ông – ngay cả những người trong nhà cha của ông. Ông phải lìa bỏ mọi sự mà ông quen biết và yêu thương. Quá khứ của ông, lịch sử và gốc rễ của ông đều phải bỏ lại ở đàng sau tất. Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời là một sự kêu gọi dành cho Ápram phải đến với những chia cắt và phân rẽ chính mình ông với những gì Đức Chúa Trời đã chất chứa cho ông. Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời bao gồm cả sự phân rẽ.
Thứ ba, sự kêu gọi của Đức Chúa Trời tỏ ra một chương trình: “mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho”. Đức Chúa Trời đã kêu gọi và đã ra lịnh cho Ápram phải ra đi, phải phân rẽ ra khỏi những gì thân thương ở chung quanh, ông phải đi đến xứ mà Đức Chúa Trời sẽ chỉ cho. Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời luôn luôn là một phần nằm trong một chương trình hay mục đích lớn lao hơn. Đối với Ápram, đây sẽ là một bước của đức tin, nhưng đấy sẽ là một bước đi vào chỗ tối tăm. Mặc dầu Ápram không biết xứ nầy ở đâu – Đức Chúa Trời biết – Đức Chúa Trời có một chương trình và một mục đích dành cho Ápram. Đây là điểm để nhớ, ấy là sự kêu gọi của Đức Chúa Trời không phải lung tung hay tùy tiện – mặc dầu đối với chúng ta là như vậy – vì Đức Chúa Trời luôn luôn có một chương trình nằm trong thì thuận tiện của Ngài, Ngài sẽ “chỉ cho”.
Sự kêu gọi của ân điển đối với Ápram
Đây là sự kêu gọi dành cho Ápram. Một mạng lịnh phải sống phân rẽ cho mục đích của Đức Chúa Trời. Bây giờ điều nầy dường như quá lạnh lùng và thậm chí nhẫn tâm khi Đức Chúa Trời làm một việc như thế. Có người mường tượng Đức Chúa Trời đang quát tháo những mạng lịnh đòi hỏi sự vâng phục, đòi hỏi mọi sự phải để lại ở đàng sau và tất cả điều nầy vì một mục đích mà Ngài chưa tỏ ra đầy đủ. Nhưng không một điều gì vượt quá lẽ thật – vì sự kêu gọi nầy đối với Ápram là một sự kêu gọi của ơn thương xót và điển của Đức Chúa Trời.
Đây là một sự kêu gọi của ân điển vì Đức Chúa Trời không dựng ra sự kêu gọi đó cách nhưng không. Đức Chúa Trời có thể bỏ Ápram lại trong Urơ xứ Canh-đê. Bỏ ông lại giữa một xứ tà giáo và vô thần, ở đó gia đình ông đang phục vụ các tà thần. Trong Giôsuê 24.2-3 chúng ta khám phá: "Tổ phụ các ngươi, là Tha-rê, cha của Áp-ra-ham, và Na-cô, thuở xưa ở phía bên sông, và hầu việc các thần khác. Nhưng ta chọn Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươi, từ phía bên sông, khiến người đi khắp xứ Ca-na-an”. Nhưng vì tình yêu thương cao sâu và lòng thương xót của Đức Chúa Trời, Ngài đã đem Ápraham ra khỏi chốn tội lỗi đó, giàu ơn chọn ông và kêu gọi ông, thậm chí ra lịnh cho ông phải đến với đức tin để mục đích của Đức Chúa Trời dành cho cả nhân loại sẽ được ứng nghiệm. Đây là ân điển.
Đây là sự kêu gọi của ân điển vì Ápram trong tội lỗi của mình chưa bao giờ kêu cầu danh Chúa theo mong muốn riêng của mình. Trong tình trạng tội lỗi của ông, Ápram không thể làm được một việc chi lành hết. Ông chưa hề phân rẽ mình ra khỏi sự thờ lạy hình tượng và quá khứ tội lỗi của mình. Sự thờ lạy các thần khác cùng những hình tượng, Ápram chưa hề biết Đức Chúa Trời hằng sống chơn thật duy nhất trừ phi từ ân điển Đức Chúa Trời đã kêu gọi và truyền cho ông phải lìa bỏ và phải phân rẽ và sống thánh khiết cùng Đức Chúa Trời.
Đây là sự kêu gọi của ân điển vì Đức Chúa Trời muốn Ápram có một phần, thậm chí là mắc xích chính, trong sự cứu chuộc nhân loại ra khỏi tội lỗi. Đây là một phần mà Ápram không đáng được, không kiếm được, cũng không có tư cách để được điều đó; nhưng đó là một phần, được hiến cho ông bởi ân sũng kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có một chương trình và một mục đích – Ngài có một lời hứa về Tin Lành phải ứng nghiệm và Ngài đã chủ động chọn Ápram; một tội nhân, một kẻ thờ lạy hình tượng, một người không con cái; để có một phần. Thực sự đây là sự kêu gọi của ân điển Đức Chúa Trời.
Sự kêu gọi của ân điển trong đời sống của bạn.
Tôi hy vọng bạn đã để ý những điểm tương đồng hầu áp dụng sự kêu gọi của Ápram cho đời sống của chính bạn và câu hỏi đầu tiên được đưa ra: “Đức Chúa Trời kêu gọi bạn để làm gì?”
Có lẽ Đức Chúa Trời giàu ơn kêu gọi bạn hãy ăn năn, xây khỏi tội lỗi và tin theo Tin lành của Đức Chúa Jêsus Christ để bạn sẽ được cứu chăng? Bạn sẽ đáp ứng như thế nào? Hãy in trí rằng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời là một mạng lịnh, chớ không phải một lời đề nghị đâu! Bạn không thể ngồi ở ngoài hàng rào. Bạn phải vâng theo và sống hay bất tuân rồi đối diện với sự phán xét đời đời của sự chết. Có phải đây là sự kêu gọi của Đức Chúa Trời dành cho bạn hôm nay không?
Có thể Đức Chúa Trời đã kêu gọi bạn “Hãy đi” và tự phân rẽ. Tự phân rẽ mình ra khỏi tội lỗi và sự vô tín, ra khỏi lỗi lầm trong quá khứ tội lỗi của bạn, ra khỏi những mối quan hệ với gia đình hay bạn bè nào khuyến khích tội lỗi hay ngăn trở sự lớn lên trong sự nên thánh. Điều nầy đã được viết ra trong Lời của Đức Chúa Trời, I Phierơ 1.16: "Hãy nên thánh, vì ta là thánh". Đây là mạng lịnh của Đức Chúa Trời!
Hay có lẽ Đức Chúa Trời giàu ơn kêu gọi bạn dự phần vào chương trình vinh hiển của Ngài. Có thể Đức Chúa Trời đang kêu gọi bạn nhơn đức tin bước ra mà đi đến một xứ mà bạn chưa biết và một nơi hay một chức vụ hầu việc mà bạn chưa quen thuộc với – mọi sự trong một chương trình và mục đích mà đúng kỳ Ngài sẽ tỏ ra cho bạn biết. Có thể sự kêu gọi là phải trở thành một giáo sĩ ở hải ngoại, hay trở thành một Mục sư hoặc người làm công tác môn đồ hoá. Có lẽ là một chấp sự hay trưởng lão trong Hội thánh. Có thể là một thuộc viên trung tín, một giáo viên trường Chúa nhựt hay một học viên sẵn lòng. Có thể sự kêu gọi phải trở thành một người chồng hay một người vợ chung thủy, người mẹ hay cha, giáo sư hay nông dân. Có thể Đức Chúa Trời đang kêu gọi bạn nhơn đức tin bước ra và yêu thương kẻ lân cận như mình, yêu thương kẻ thù mình, cầu thay cho kẻ phạm sai lầm với bạn, tha thứ cho những kẻ làm mất lòng bạn? Dù bạn là ai và đã làm gì trong quá khứ Đức Chúa Trời kêu gọi bạn làm gì chứ? Chúa Jêsus bảo chúng ta: "Hãy đi, làm theo như vậy" (Luca 10.37).
Bạn yêu dấu ơi, một lần nữa hãy nhớ rằng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trong đời sống bạn là sự kêu gọi của ân điển Ngài – bất luận đó là sự kêu gọi nào. Không một ai trong chúng ta xứng đáng với sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta. Chúng ta không xứng đáng với sự nhơn từ và sự tử tế của Ngài. Cho nên, khi sự kêu gọi đến, chúng ta phải hạ mình xuống và tỏ lòng biết ơn vì Ngài đã chiếu cố tới kẻ thấp hèn. Như chúng ta đã thấy với Ápram – ân điển của Đức Chúa Trời tiếp tục khi Ngài thêm vào ơn kêu gọi nhiều lời hứa phước hạnh của Ngài. Một việc mà gần như chúng ta chắc chẳng xứng đáng với 2-3.
Những lời hứa (2-3, 7)
3 lời hứa chính
God kêu gọi Ápram ra khỏi tội lỗi và sự tối tăm – kêu gọi ông phải biệt riêng ra và hầu việc Đức Chúa Trời Hằng Sống Chơn Thật Có Một – như thể đây chưa đủ là một ơn phước – Đức Chúa Trời lập những lời hứa nầy về ơn phước mà về sau sẽ trở thành nền tảng cho Giao Ước Ngài sẽ lập với Ápram.
Việc thứ nhứt chúng ta lưu ý về những lời hứa nầy mà Đức Chúa Trời “Sẽ” thực hiện chúng. Bốn lần trong mấy câu nầy (5 nếu bạn thêm phần cuối của câu 1) Đức Chúa Trời hứa với Ápram – “Ta sẽ”. “Ta sẽ chỉ cho … Ta sẽ làm cho ngươi … Ta sẽ ban phước cho ngươi … Ta sẽ ban phước cho người nào … Ta sẽ ruả sả”. Vì Đức Chúa Trời “sẽ” làm một số việc, như vậy có nghĩa là việc ấy tốt cần phải làm. Lời hứa ấy được bảo đảm và không một điều gì có thể ngăn trở được tiến trình của nó. Êsai 46.10-11: “'Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý. Ta gọi chim ó đến từ phương đông, và gọi người làm mưu ta đến từ xứ xa. Điều ta đã rao ra, ta sẽ làm hoàn thành, điều ta đã định, ta cũng sẽ làm”. Ápram có thể dám chắc rằng những lời hứa của Đức Chúa Trời lập đều là thực cả.
Thứ hai, chúng ta lưu ý đến bản thân những lời hứa. Một số nhà giải kinh lưu ý rằng có 7 lời hứa. Điều nầy là thực, nhưng lời hứa thứ tư quả thực là một một kết quả đã được tóm tắt lại ba lời hứa đầu tiên, chúng được gói ghém lại hay được giải thích trong ba lời hứa sau cùng.
Lời hứa đầu tiên: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn”. Lời hứa nầy rất quan trọng vì ngay lập tức nó tỏ ra cho Ápram thấy rằng Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành điều chi vốn là khó đối với con người. Một người chồng và một người vợ son sẻ không thể làm được một nước lớn. Ápram đã 75 và Sarai đã 65 tuổi, theo nhận định của con người nếu họ chưa có một mụn con nào trong lúc bây giờ, họ sẽ không ra đi trừ phi Đức Chúa Trời có một chương trình khi Ngài kêu gọi Ápram ra khỏi kẻ chết (thực như thế). Chương trình ấy làm cho ông thành một nước lớn. Hãy lưu ý, lời hứa ấy không nói: “một dân lớn” – Lót, cháu của Ápram đã được xem là dân sự của Ápram – nhưng nước lớn mà Đức Chúa Trời đã hứa sẽ không ra từ Lót. Đức Chúa Trời xác định điều nầy trong câu 7: “cho dòng dõi ngươi” hay sát nghĩa: “cho con cháu ngươi” đất nầy. Ápram sẽ có con cái mặc dù việc nầy dường như quá khó. Điều tất nhiên là phải trở thành một nước lớn. – Ápram sẽ cần đến đất đai – và Đức Chúa Trời chỉ cho ông xứ sẽ thuộc về dòng dõi của ông – vì vậy mới có Đất Hứa!
Lời hứa thứ hai, ấy là Đức Chúa Trời bảo Ápram: “Ta sẽ ban phước cho ngươi”. Được Đức Chúa Trời ban phước có nghĩa là nhận lãnh những tiện ích dư dật của ân sũng và lòng thương xót của Ngài. Quả thực Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho Ápram bằng nhiều cách. Ápram sẽ đòi hỏi sự giàu có lớn (Sáng thế ký 13.2), ông sẽ có được chiến thắng về mặt quân sự (14.15-16), ông sẽ nhận lãnh một ơn phước đặc biệt từ thầy tế lễ của Đức Chúa Trời (14.19), ông sẽ bước vào Giao Ước với Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 15), được gọi là bạn của Đức Chúa Trời (Giacơ 2.23), và ông sẽ nhận lãnh ơn phước và sự ban cho một con trai (17.19; Thi thiên 127.3). Ápram thực sự sẽ được Đức Chúa Trời ban phước cho.
Lời hứa thứ ba, ấy là làm nổi danh Ápram. Lời hứa nầy đối ngược với những kẻ tại tháp Ba-bên trong chương 11, họ tìm cách làm cho họ nổi danh. Chỉ có Đức Chúa Trời mới dấy tên của một người lên hàng cao trọng và mục tiêu ấy đã được lập ở đây. Và quả thực tên của Ápram (về sau là Ápraham) sẽ trở nên cao trọng. Đây là một danh rất tôn trọng trong ba tôn giáo chính của thế giới, họ đều tôn cao Ápraham. Người Do thái, Cơ đốc nhân, và người theo Hồi giáo. Nhưng sự cao trọng thật của danh Ápraham sẽ đến qua Dòng Dõi của Ápraham, ngay cả Đức Chúa Jêsus Christ và những ai được kể là con cháu của Ápraham vì họ tin nơi danh của Đấng Christ để được cứu.
Kết quả của những lời hứa
Điều nầy dẫn tới lời hứa chủ chốt thứ tư, là lời hứa chúng ta đã lưu ý trước, là một kết quả tóm lược của ba lời hứa đầu tiên. Nếu Đức Chúa Trời lập Ápram thành một nước lớn kể cả đất đai, và nếu Đức Chúa Trời ban phước cho Ápram và nếu Đức Chúa Trời lập danh Ápram thành một danh lớn, khi ấy Ápram sẽ thực sự trở thành một nguồn phước cho nhiều người khác. Khi Ápram là một nhân vật mà Đức Chúa Trời đã giàu ơn lựa chọn để làm cha của một dòng dõi được hứa cho – Ápram sẽ trở thành một đại lộ qua ông nhiều phước hạnh sẽ tuôn tràn cho cả nhân loại. Đức Chúa Trời ban phước cho Ápram hầu cho Ápram sẽ trở thành một nguồn phước. Ba ơn phước sau cùng mở ra điều nầy giống như cách thức mà Đức Chúa Trời sẽ sử dụng Ápram để ban phước cho nhiều người khác.
Những lời hứa thứ năm và thứ sáu đều có quan hệ và nói tới những hành động chống đối. Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho Ápram và những ai rủa sả Ápram, Đức Chúa Trời sẽ ruả sả họ. Thật là dễ nhìn thấy thể nào Ápram sẽ trở thành một nguồn phước cho những ai tích cực đáp ứng với ông. Người nào chúc phước Ápram sẽ được phước bởi những lời hứa đã ban cho Ápram tuôn tràn ra dư dật bởi ân sũng của Đức Chúa Trời. Nhưng làm sao sự rủa sả những kẻ rủa sả Ápram lại là nguồn phước cho nhiều người khác cho được? Có hai điều khả thi:
Người nào rủa sả Ápram và kẻ bị Đức Chúa Trời rủa sả tự tỏ mình là dòng dõi của Con Rắn. Sự phân biệt nầy sẽ là một nguồn phước lớn lao cho nhiều người khác trong đó họ sẽ nhận biết họ đang hướng về ai và dè chừng không bước theo lối của con rắn.
Điều khả thi khác nữa, ấy là có việc cần phải làm với Luật pháp của Đức Chúa Trời và sự sốt sắng của Ngài đối với sự thánh khiết và sự công bình. Người nào rủa sả Ápram cũng rủa sả và quên mất Luật Đạo Đức của Đức Chúa Trời sẽ đến qua Isarel, là dòng dõi của Ápram. Phước hạnh đến với sự thực là sự công bình của Đức Chúa Trời sẽ thắng hơn những kẻ phá vỡ Luật pháp của Ngài và những ai bắt bớ dân sự Ngài. Đây là một ơn phước rất lớn.
Lời hứa thứ bảy mở ra không những lời hứa thứ tư, mà nó còn mở ra và bày tỏ sâu xa hơn Lời hứa về Tin Lành trong 3.15: “Và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”. Ápram sẽ trở thành một nguồn phước cho các chi tộc nơi thế gian. Giờ đây chúng ta phải để ý rằng lời hứa nầy không mang tính phổ quát, nghĩa là, lời hứa nầy không nói rằng một dân đặc biệt mới được phước đâu – mà đúng hơn, mọi người không phân biệt dòng giống, phái tính hay sắc tộc đều sẽ được phước. Đức Chúa Trời đã hứa ban phước cho một gia đình – gia đình của Ápram – nhưng qua gia đình của Ápram nhiều gia đình khác trên đất cũng đều sẽ được phước – như Phaolô nói rất quả quyết: Galati 3.28-29: “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một. Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì anh em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa”. Israel sẽ giữ một địa vị đặc biệt trong lịch sử cứu chuộc vì họ là dòng dõi theo phần xác của Ápraham – nhưng vì những gì Đức Chúa Trời mang lại qua Israel – mọi người – cả người Do thái và dân Ngoại đều sẽ được phước.
Những lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho bạn
Sẽ không phải là khó khăn khi nhìn thấy thể nào các lời hứa nầy áp dụng cho bạn khi thắc mắc đến: Đâu là những lời hứa mà Đức Chúa Trời đã lập với bạn?
Nếu bạn tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ và vì thế tự bày tỏ chính mình là dòng dõi của Ápraham, có phải những lời hứa của Ápraham cũng đều thuộc về bạn không?
Từ Hội thánh của Ngài, có phải Đức Chúa Trời hứa lập một dân lớn – không phải về chính trị, địa lý hay thuộc về đời nầy, mà là một nước thuộc linh, một dân thánh, một dân làm cơ nghiệp riêng của Đức Chúa Trời? (I Phierơ 2.9)
Há Đức Chúa Trời không hứa ban phước cho chúng ta với từng phước hạnh thuộc linh trong Đức Chúa Jêsus Christ, cả ở đây và trong các nơi trên trời hầu đến sao? (Êphêsô 1.3).
Há Đức Chúa Trời không làm nổi danh chúng ta bằng cách đưa chúng ta vào làm con nuôi trong gia đình của Ngài để chúng ta được gọi là con cái của Đức Chúa Trời, là những kẻ thừa tự những lời hứa và đồng thừa tự với Đấng Christ sao? (I Giăng 3.1, Rôma 8.17).
Há Đức Chúa Trời không kêu gọi chúng ta vì Ngài đã ban phước dư dật và lớn lao cho chúng ta để làm phước và trở thành một nguồn phước, để làm nhiều việc lành mà chính mình Đấng Christ đã bày ra cho chúng ta hầu cho chúng ta tôn vinh, ngợi khen và làm vinh hiển cho danh Ngài trong mọi sự (Êphêsô 2.10, I Côrinhtô 10.31). Quả thật, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những lời hứa nầy – quả thật chúng ta đã được phước và quả thật chúng ta sẽ trở thành một nguồn phước.
Sự vâng phục (4-9)
Vâng phục là ra đi. Ápram đã ra đi
Sau cùng, chúng ta đến với sự vâng phục của Ápram trong các câu 4-9 và có 3 điều mà Ápram đã làm tỏ ra sự ông vâng phục đối với ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời. Thứ nhứt, câu 4
Ápram tỏ ra sự vâng phục đối với ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời bằng cách ra đi. Ra đi đến một xứ không thuộc về ông. Ra đi đến một nơi mà ông không biết. Ra đi giữa một dân mà ông là khách lạ. Ra đi đến một xứ mà Đức Chúa Trời sẽ chỉ cho ông.
Như chúng ta đã lưu ý trước – việc Ápram ra đi không phải là bước đi trong tối tăm đâu – ông không bước đi cách mù quáng. Ông đang bước đi trong sự sáng của Lời Đức Chúa Trời với sự tin cậy và tin tưởng vào mọi lời hứa của Đức Chúa Trời dầu khi rất khó tin. Mặc dầu có nhiều việc ông chưa biết, ông đã nắm lấy lẽ thật đơn sơ nầy – Đức Chúa Trời đã kêu gọi và ông phải vâng theo. Lẽ thật đơn sơ nầy chính là đức tin: Hêbơrơ 11.1: “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy”.
Vâng phục là đòi hỏi. Về đất đai
Thứ hai, Đức Chúa Trời đã hứa Ngài sẽ ban cho Ápram đất đai và làm cho ông thành một nước lớn và Ápram tỏ ra thái độ vâng phục bằng cách đòi hỏi những lời hứa nầy. Ông trải đi đến xứ Canaan và nhìn thấy đất đai đó. Ông lên phía Bắc gần Si-chem (6), khi ấy đến phía Đông gần Bê-tên (8) và rồi xuống phía Nam hướng về Negev (9). Ápram đã đi hết vùng đất mà Đức Chúa Trời đã hứa, đòi hỏi cho dòng dõi của ông theo cách biểu tượng.
Giờ đây, thật là lý thú khi để ý thấy rằng dầu Ápram đem Lót, Sarai cùng mọi của cải mình theo – ông chưa có một mụn con nào riêng cả, vì ông chưa có một đứa con nào. Rồi ông đòi hỏi lời hứa của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có thể hoàn thành điều khó khăn ấy và ông đã vâng theo.
Dân Canaan còn ở trong xứ, đất đai là của họ, ít nhất là họ nghĩ như thế. Nhưng Ápram không đến để đuổi dân Canan hay loại trừ họ hoặc chiếm lấy xứ của họ. Tại sao chứ? Có hai lý do:
Thứ nhứt, vì ông nắm chắc lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được ban cho dòng dõi của ông, cho con cháu của ông. Và vì thế, dù ông chưa hề tiếp lấy đất ấy để thụ hưởng – ông đã tin theo Đức Chúa Trời và điều nầy được kể là công bình cho ông.
Thứ hai, hy vọng của Ápram không đặt vào của cải cụ thể. Vì ông hiểu rằng đây chỉ là một bước đến với cơ nghiệp lớn lao hơn ở trên trời qua Đức Chúa Jêsus Christ. Hêbơrơ 11.9-10: “Bởi đức tin, người kiều ngụ trong xứ đã hứa cho mình, như trên đất ngoại quốc, ở trong các trại, cũng như Y-sác và Gia-cốp, là kẻ đồng kế tự một lời hứa với người. Vì người chờ đợi một thành có nền vững chắc, mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập”. Ápram đã vâng theo Đức Chúa Trời bằng cách đòi hỏi các lời hứa đã được ban cho.
Vâng phục là ngợi khen và thờ lạy; Các bàn thờ
Thứ ba, chúng ta thấy rằng Ápram đã vâng phục bằng cách đáp ứng với ơn kêu gọi và những lời hứa của Đức Chúa Trời bằng sự ngợi khen và thờ lạy. Hai lần Kinh thánh cho chúng ta biết Ápram “lập một bàn thờ”. Thứ nhứt, tại Si-chem, ở đây Đức Chúa Trời đã hiện ra cùng ông khẳng định mọi lời hứa (7). Rồi kế đó, gần Bêtên, ở đó ông “cầu khẩn danh Ngài” (8).
Bằng cách thiết lập các bàn thờ nầy Ápram đã làm hai việc:
Ông đã làm chứng với gia đình mình và với người dân xứ Canaan về sự thờ phượng thực đối với Đức Chúa Trời hằng sống chơn thật có một. Ông đã rời bỏ một xứ thờ lạy hình tượng theo tà giáo và đã bước vào một xứ thờ lạy hình tượng tà giáo. Bằng cách thiết lập các bàn thờ nầy cho Đức Giêhôva, Ápram đang đòi hỏi đất đai không những cho chính mình ông và dòng dõi của mình, mà còn cho Giêhôva Đức Chúa Trời nữa.
Thứ hai, bằng cách thiết lập các bàn thờ nầy Ápram đang tỏ ra thái độ biết ơn đối với Đức Chúa Trời. Ông cảm tạ Đức Chúa Trời là Đấng đã vì tình yêu thương và lòng thương xót đã kêu gọi ông ra khỏi tội lỗi và sự vô tín. Ông thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng giàu ơn ban hiến cho ông hết ơn nầy đến phước khác. Ông ngợi khen Đức Chúa Trời là Đấng sẽ đại dụng ông trở thành một nguồn phước cho người ta ở từng nước ở dưới trời. Đây là phần đáp ứng với thái độ vâng phục của Ápram đối với ơn kêu gọi đáng kinh ngạc của ân sũng Đức Chúa Trời.
Sự vâng phục trung tín Ngài đòi hỏi
Thế là chúng ta đến với thắc mắc sau cùng. Hỡi anh chị em, có phải quí vị sống trung tín và vâng phục đối với ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời trong đời sống của mình và tìm kiếm những ơn phước của mọi lời hứa mà Ngài đã lập không những qua Ápraham, mà nhất là qua Dòng dõi được hứa cho của Ápraham, là Đức Chúa Jêsus Christ nữa?
Giờ đây, hãy xem xét trong lòng mình – đâu là điều Đức Chúa Trời kêu gọi, truyền lịnh cho bạn phải làm? Tin! Nên thánh! Phục vụ vì sự vinh hiển của Ngài và mở rộng Vương quốc Ngài. Điều nào vậy?
Cũng hãy nhớ tới mọi lời hứa diệu kỳ đã được cung ứng cho trong Lời của Ngài. Sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ! Sự đầy dẫy niềm vui mừng trong sự hiện diện vinh quang của Đức Chúa Trời cho đến đời đời! Được phước và kết quả trong mọi sự bạn bắt tay làm! Trở thành một nguồn phước cho những người ở chung quanh bạn. Gia đình bạn, Hội thánh của bạn, người lân cận của bạn!
Ngay bây giờ, có phải bạn bằng lòng, bởi quyền phép của Đức Thánh Linh bước ra trong đức tin rồi vâng theo ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời, đi đến nơi mà Ngài hướng dẫn, đi ra và trong sự vâng phục đòi hỏi lời hứa nầy làm của riêng mình, ngợi khen và thờ lạy danh vinh hiển của Ngài vì ân sũng dư dật và lạ lùng của Ngài trong đời sống của bạn. Mọi sự ấy đều có ý nói: "Hãy đi, làm theo như vậy" (Luca 10.37).
Và nguyện một mình Đức Chúa Trời được sự vinh hiển!












Năm Xí Xóa



Năm Xí Xóa
II Côrinhtô 2:5-11

Bạn có nghe nói về ngày “xí xóa” chưa?
Có lẽ là chưa trừ phi bạn đã sinh sống tại thành phố Nữu Ước. Thứ Hai vừa qua (ngày 28 tháng Chạp) là Ngày Xí Xóa ở Quãng Trường Times. Những nhà tổ chức đã khích lệ dân chúng viết ra những lời than phiền của họ rồi ném bỏ chúng vào máy cắt giấy làm biểu tượng cho hành động bỏ đi những ký ức đau thương, những kinh nghiệm không tốt, các lỗi lầm dại dột, những quan hệ, các sự lựa chọn ngớ ngẩn, và những đố kỵ được cất giữ lâu nay tiềm ẩn ở trong họ. Những ai tham dự có thể sử dụng quả búa tạ trong trường hợp máy cắt giấy kia không đủ cung ứng được lối thoát về tình cảm.
Một tay viết blog rất thích ý tưởng nầy:
Tôi nghĩ ngày nầy đang trở thành một ngày lễ mà tôi rất ưa thích!!! Hôm nay là cơ hội để nói “Xí Xóa” đối với một việc gì đó... và tôi đang lập ra cả một danh sách đây!!!
Có cái gì đó gần như rất hấp dẫn về ý tưởng “bỏ đi cái cũ, nhận lấy cái mới”. Có khi chúng ta cần phải nói “xí xóa” đối với sự đau thương của quá khứ. Muốn làm như thế chúng ta phải có đủ can đảm để bỏ đi cơn giận, chào vĩnh biệt với nổi cay đắng, và quăng xa ác ý của mình đối với những kẻ gây tổn thương nhiều cho chúng ta.
Chúng ta phải học biết tha thứ. Cho tới chừng chúng ta biết tha thứ, chúng ta mới có thể thôi không chùng bước nữa. Bao lâu chúng ta sống với quá khứ, chúng ta sẽ bị xiềng xích vào quá khứ, và kẻ gây tổn thương nhiều cho chúng ta đang đạt được chiến thắng gấp bằng hai – lần thứ nhứt khi họ gây tổn thương cho chúng ta và lần thứ hai khi chúng ta từ chối không chịu bỏ qua và cứ chịu mãi như thế.
Tôi đã học được điều nầy cách đây nhiều năm trời trong Hội Thánh đầu tiên mà tôi làm chủ tọa ngay khi ra trường. Tôi đã nghiên cứu cả hội chúng trong một năm trời rồi yêu cầu họ chọn những đề tài trong loạt bài mà tôi đặt tên là “Dưỡng đường hôn nhân”. Sự nghiên cứu ấy thành công đến nỗi qua năm sau tôi đã làm y như thế cho loạt bài có tên là “Dưỡng đường gia đình”. Khi tôi tìm hiểu hội chúng hai năm liền, chỉ có một chủ đề được lặp lại. Và chủ đề đó kết thúc khi nhận được nhiều phiếu bầu chọn nhất cho cả hai năm. Chủ đề đó là: “Làm sao kềm giữ được cơn giận và sự cay đắng”. Tôi nhớ mình đã lặng người đi vì những kết quả, vì thế tôi đã hỏi vợ tôi lý do tại sao chủ đề ấy đã đạt tới mức # 1 trong cả hai năm. Với sự khôn ngoan bẩm sinh, nàng đáp: “Em đoán sở dĩ như thế là vì dân sự của chúng ta có nhiều sự giận và cay đắng”.
Hết thảy chúng ta đều phấn đấu với những mối quan hệ tan vỡ, với hạng người gây tổn thương chúng ta, với những lời lẽ gây đau lòng, với những hành vi dối gạt, với những người bạn xây lưng nghịch cùng chúng ta, và với lời lẽ không tử tế đã nói về chúng ta hay về những người thân yêu của chúng ta.
Kẻ làm cớ buồn rầu
Hai việc sau đây dường như rất thực về tình trạng của con người: Chúng ta luôn cần sự tha thứ và chúng ta luôn có ai đó chúng ta cần phải tha thứ. Chính ở chỗ nầy mà II Côrinhtô 2:5-11 tỏ ra rất thích đáng. Trong tiểu đoạn nầy, Phaolô thách thức các Cơ đốc nhân tại thành Côrinhtô nên chìa tay ra và tha thứ một người trong hội chúng, là kẻ đã phạm tội. Người ấy đôi khi được gọi là “kẻ làm cớ buồn rầu". Chúng ta không biết chính xác người ấy là ai hay chính xác người ấy đã làm gì, song việc ấy nhất định là xấu xa rồi. Về mặt lịch sử, những nhà giải kinh đã nối tiểu đoạn nầy với người mà Phaolô đã nhắc tới ở I Côrinhtô 5, là người đã ngủ với vợ của cha mình (rõ ràng có nghĩa là mẹ kế của người ấy). Còn tệ hại hơn nữa, Hội Thánh đang khoe khoang, với “ân điển” của Hội Thánh, họ đã cho phép người nầy cứ ở lại trong Hội Thánh. Phaolô căn dặn họ phải đến với nhau như một hội chúng và gạt người kia ra khỏi Hội Thánh, nghĩa là phải dứt phép thông công, cắt đứt mối tương giao Cơ đốc, người ấy phải đạt tới chỗ ăn năn. Nếu đấy là người trong nhận định ở II Côrinhtô 2, thì sự dứt phép thông công rõ ràng đã tác động vì người kia biết ăn năn và quay trở lại với Hội Thánh, nhưng hội chúng đã từ chối không nhận người trở lại. Và đấy chính là bối cảnh.
Thêm nhiều nhà giải kinh mới đây nói rằng nhân vật được nhắc tới ở I Côrinhtô 5, thay vì thế là một người khác, là kẻ lãnh đạo cuộc nổi loạn chống lại Sứ đồ Phaolô, hắn xưng rằng hắn không phải là sứ đồ “thật”, đang gây chia rẻ trong Hội Thánh và tạo ra sự tổn hại rất lớn. Phaolô đã viết thư cho Hội Thánh, nói cho họ biết phải loại bỏ người ấy ra. Họ đã làm theo y như thế, và rõ ràng hắn đã biết nhận thức và muốn được phục hồi. Vì thế, Phaolô viết thư để nói cho Hội Thánh biết rằng kẻ làm cớ buồn rầu đã chịu khổ đủ rồi và họ cần phải tha thứ cho người ấy để hắn sẽ không hoàn toàn bị ngã lòng.
Vì sự dạy cũng là một dù cho viễn cảnh như thế nào thì không thành vấn đề.
Có khi chúng ta phải sử sụng một hành động mạnh mẽ chống lại ai đó đang phạm tội.
Khi chúng ta làm thế, chúng ta phải bằng lòng tha thứ cho họ sau đó.
Đâu là điều khó hơn?
Xét đoán tội lỗi hay tha tội?
Chiếm lấy vị trí chống lại hành vi phạm tội ư?
Hay tin một người thực sự đã thay đổi đường lối của người ấy?
Đối với tôi dường như cả hai đều khó tương đương nhau nhưng với những phương thức khác biệt. Cả hai đều đòi hỏi sự dạn dĩ, khôn ngoan và yêu thương. Và chúng ta cần Đức Thánh Linh để chỉ cho chúng ta thấy con đường ở trước mặt.
Khi chúng ta nghiên cứu tiểu đoạn Kinh Thánh nầy, chúng ta hãy lưu ý 5 lợi ích của sự tha thứ:
1. Sự tha thứ tỏ ra ơn thương xót của Đức Chúa Trời.
Tiểu đoạn bắt đầu bằng cách nói tới sự thích nghi của Hội Thánh trong phần kỷ luật (các câu 5-6). Mọi điều họ đã thực thi rồi là rất đủ. Bằng cách gạt kẻ làm cớ buồn rầu ra khỏi Hội Thánh, họ đã hành động với một tư thế ngay thẳng. Nhưng kế đó thì bạn làm gì nữa vậy? Làm sao bạn nhìn biết lúc nào đủ là đủ? Bậc phụ huynh phấn đấu với điều nầy khi họ kỷ luật đứa con khó dạy. Đứa trẻ phải cúi xuống đất không? Bị quở trách? Bị nhốt vào phòng? Bị đánh đòn? Bị buộc phải viết một bức thư hay đưa ra một lời xin lỗi? Nó có phải làm một sự đền bù nào đó không? Nó sẽ bị phạt bao lâu? Châm ngôn 27:6 nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Bạn hữu làm cho thương tích, ấy bởi lòng thành tín; Còn sự hôn hít của kẻ ghen ghét lấy làm giả ngụy". Khi chúng ta kỷ luật người chúng ta yêu thương, trước hết chúng ta bị coi là một kẻ thù chớ không phải là một người bạn, là loại người giống như bậc phụ huynh hay nói: “Điều nầy làm đau lòng ba còn hơn nó làm đau lòng con nữa đấy”. Khi bố mẹ tôi kỷ luật tôi, tôi thực sự không hề tin như thế, gần như thế vì tôi có khi rất láu lỉnh và có khi bất tuân không nghe lời. Hình phạt dường như không hề làm cho họ phải bối rối nhiều như nó gây tổn thương cho lòng tôi. Song tất nhiên tôi không phải là một người quan sát khách quan đâu!
Ở đây, chúng ta đến với một vấn đề đòi hỏi phải khéo léo, một vấn đề mà chẳng có câu trả lời nào tuyệt đối cho nó hết. Làm sao bạn nhìn biết lúc nào thì đủ cho hình phạt? Tôi nói vấn đề phải khéo léo vì hết thảy bậc phụ huynh đều hiểu rằng trẻ con rất khác biệt, và cái điều tác động với đứa nầy sẽ không tác động với đứa kia. Tôi đã nghe bậc phụ huynh nói về con cái của họ (thường là con trai): “Không một việc nào chúng tôi làm là nhằm nhò với nó hết”, và về mấy đứa trẻ khác (thường là con gái): “Mọi sự tôi đã làm là nhìn thẳng vào mặt nó và tấm lòng nó bị tan vỡ”. Vì vậy trong việc xử lý với những vấn đề nầy, chúng ta cần sự can đảm, khéo léo, ân điển và khôn ngoan.
Phaolô muốn người thành Côrinhtô nhìn biết rằng những gì họ đã làm là đúng, nhưng bây giờ thời điểm đã đến để tha thứ và tiếp nhận người nầy quay trở lại bước vào mối tương giao của Hội Thánh. Sự tha thứ trong trường hợp ấy tỏ ra ơn thương xót của Đức Chúa Trời. Hãy xem lời lẽ của David ở Thi thiên 103:8-9.
“Đức Giê-hô-va có lòng thương xót, hay làm ơn, chậm nóng giận, và đầy sự nhân từ. Ngài không bắt tội luôn luôn, cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời”
Có khi chúng ta nghĩ lầm rằng nếu chúng ta tha thứ, chúng ta sẽ dễ dãi với tội lỗi. Nhưng nếu Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta theo cách chúng ta đối xử với người khác, chúng ta sẽ chẳng được tha thứ chi hết. Có bao giờ bạn biết ai đó ưa tranh luận không? Hết thảy chúng ta đều biết rõ người nào thích lao vào tranh cãi vì họ quá giận dỗi. Đức Chúa Trời không thích hạng người ấy. Ngài bằng lòng kết thúc cuộc tranh cãi rồi tiếp đón chúng ta trở về quê hương. Có đôi lúc nan đề thực cho thấy chúng ta vẫn muốn giữ lấy việc chiến đấu với Ngài.
Chúng ta không hề giống với Đấng Christ được khi chúng ta tha thứ cho ai đó phạm tội nghịch cùng chúng ta.
2. Sự tha thứ phục hồi tội nhân.
Vì vậy, có nhiều lúc chúng ta sống y như người anh cả trong câu chuyện nói tới người con trai hoang đàng (Luca 15:11-32). Sâu lắng trong tội lỗi của người khác làm cho chúng ta ghê tởm đến độ chúng ta thực sự không muốn họ ăn năn. Sự tha thứ dường như quá rẻ rúng, quá nhanh, quá dễ dãi. Rốt lại, chúng ta là hạng người thi đấu bởi những luật lệ. Chúng ta không đòi sớm cơ nghiệp của mình, chúng ta không phung phí tài sản trong một “xứ xa”, và chúng ta chắc chắn không kết thúc trong việc dùng bữa với loài heo. Chúng ta không phải là hạng người lún sâu trong một mối hôn nhân tồi tệ. Con cái chúng ta không nhiễm sâu vào ma túy. Chúng ta đã xây dựng đời sống của mình quanh Hội Thánh. Chúng ta là những Cơ đốc nhân nhơn đức, tin theo Kinh Thánh, chúng ta hay đi nhà thờ, có Giờ Tĩnh Nguyện, dâng phần mười, tham dự các chuyến hành trình truyền giáo, và chúng ta cầu nguyện mỗi ngày. Chúng ta không thích “mấy người kia”. Nếu bạn yêu cầu chúng tôi, chúng tôi hết thảy đều biết tha thứ chiếu theo nền tảng thần học. Nhưng khi sự việc xảy đến với ai đó chúng tôi biết rõ và dù chúng tôi tin tưởng, người ấy đánh hạ chúng tôi xuống hay gây tổn thương chúng tôi thật sâu sắc, chúng tôi không mau mắn tha thứ đâu. Thành thực mà nói, chúng tôi nghĩ chúng tôi sống tốt hơn gã đó, là kẻ đưa ra mọi sự lựa chọn ngu xuẫn ấy. Tại sao chúng tôi phải muốn hắn ta trở lại với Hội Thánh chứ?
Chúng ta hiểu biết ân điển của Đức Chúa Trời ít ỏi là dường nào.
Chúng ta hiểu biết về bản thân mình ít ỏi là dường nào.
Khi chúng ta đọc câu chuyện nói tới người con trai hoang đàng, chúng ta phải thắc mắc: “Ai là kẻ tệ nhất chứ? Người con đã ra đi rồi trở lại ư? Hay người con chưa hề ra đi nhưng không muốn tha thứ cho em mình, là đứa đã ra đi?” Ổ phần cuối, dường như câu chuyện cho thấy người anh là tệ hại nhất vì anh ta không đặt mình vào sự vui mừng khi đứa em trở về.
Trong bài giảng của ông về tiểu đoạn Kinh Thánh nầy, Mục sư Robert Rayburn nói rằng khi chúng ta thấy ai đó bị sửa phạt vì tội lỗi của họ, chúng ta cần phải nhớ rằng chúng ta cũng là hạng tội nhân trầm trọng nữa đấy. Chúng ta nên nói với lòng mình theo cách nầy:
“Tôi là người ấy. Tôi là người ấy với cả ngàn phương thức. Tôi đã giết nhiều người nam người nữ ở trong lòng mình. Tôi đã đánh mất tên tuổi và danh tiếng của họ trong những vụ việc mà tôi suy nghĩ và đã nói về họ. Và những gì tôi đã làm đang chống nghịch lại nhiều người nam người nữ, tôi đã làm và đã phạm nhiều việc tệ hại hơn nghịch lại Đức Chúa Trời. Và, nếu tôi thực sự chưa hề phạm tội giết người hay trộm cướp, phải, tôi biết lòng tôi đủ để rõ rằng có nhiều việc phải làm với mọi hoàn cảnh trong cuộc sống của tôi hơn là phải làm với bất kỳ phẩm hạnh nào ở trong tôi. Với một sự dạy khác biệt, với một loạt những thử thách khác biệt, những gì tôi đã làm và những gì tôi không làm?”
Nếu chẳng có hy vọng nào về sự tha thứ cho tội nhân tệ lậu nhất trong số tội nhân, thế thì chẳng có hy vọng gì cho bất kỳ ai trong chúng ta. Sự tha thứ thật phục hồi lại tội nhân. Hãy nhìn vào cách Phaolô nói tới ơn ấy ở các câu 7-8:
“thà nay anh em tha thứ yên ủi, hầu cho người khỏi bị sa ngã vì sự buồn rầu quá lớn. Vậy tôi xin anh em hãy bày tỏ lòng yêu thương đối với người đó”.
Đồng thời, hãy chú ý một sự việc rất quan trọng. Ông không kể tên người đã dính dáng đến cũng chẳng nói tới loại tội lỗi đặc biệt đó. Đấy là điểm rất hay. Một lý do chúng ta bàn bạc tiểu đoạn Kinh Thánh nầy, ấy là Phaolô bung ra lời bình của ông không có ý chồng chất thêm trên cái đống xấu hổ kia. Người thành Côrinhtô vốn biết rõ Phaolô đang nói tới ai và đấy là vấn đề. Kỷ luật và sự tha thứ của chúng ta cần phải được tôi luyện bởi một ước muốn không bôi nhọ tiếng tăm của ai đó không cần thiết. Trong thời đại truyền thông mau mắn nầy, Facebook và Twitter và nhắn tin ngay tức khắc, khi chúng ta dán điều chi lên YouTube cho cả thế giới xem, chúng ta cần phải mau mau chạy theo tấm gương của Phaolô:
Yêu thương không bôi nhọ ai.
Yêu thương không sỉ nhục người khác.
Yêu thương che đậy muôn vàn tội lỗi.
Tôi được nhắc nhớ về một dòng từ bài hát: “Họ sẽ nhìn biết chúng ta là Cơ đốc nhân bởi tình yêu thương của chúng ta” nghĩa là: “Chúng ta sẽ xem trọng mỗi người và bảo lưu lòng tự hào của mỗi người". Đấy chính xác là điều Phaolô đang nói ở đây. Và đấy là những gì chúng ta phải làm khi chúng ta kỷ luật và khi chúng ta tha thứ. Hãy noi theo con đường thương xót, chớ không phải báo thù.
3. Sự tha thứ chứng tỏ thái độ vâng phục.
Hãy xem thể nào Phaolô đặt vấn đề nầy vào câu 9: “Bởi chưng tôi viết thơ cho anh em, cốt để thử anh em xem có vâng lời trong cả mọi sự cùng chăng".
Một lần nữa, điều nầy có hai mặt.
Bạn sẽ vâng theo khi bị kỷ luật không?
Bạn sẽ vâng theo khi hiến sự tha thứ không?
Trong trường hợp nầy, sự tha thứ minh chứng tính chân thành của đức tin Cơ đốc của chúng ta. Bạn có yêu thương đủ để tha thứ khi kỷ luật dẫn tới sự ăn năn? Điều nầy có thể là khó mà làm theo lắm, đặc biệt nếu người kia gây tổn thương nhiều cho chúng ta hoặc nếu người ấy gây tổn thương những người chúng ta yêu dấu. Nhưng sẽ có một điểm lúc chúng ta thôi không đau đớn nữa rồi chìa tay ra với tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà nói: “Ngươi được tha thứ trong danh của Chúa Jêsus”. Tôi không bao giờ quên được trường hợp của một thuộc viên Hội Thánh, người nầy đã phạm tội tà dâm thường xuyên trải qua một thời gian rất dài. Không một ai trong Hội Thánh biết sự thể ấy cho tới chừng tội lỗi lộ ra trong ánh sáng. Kết quả ấy đưa cấp lãnh đạo Hội Thánh đến chỗ thử nghiệm. Thế rồi người nầy ăn năn tội của mình. Vợ ông ta sẽ làm gì đây? Trong sự xét đoán của tôi, bà ấy đã có từng lý do để xin ly dị. Tội lỗi của ông ta quá hiển nhiên và cứ lặp đi lặp lại hoài. Nhiều bà vợ sẽ nói: “Tôi không còn tin tưởng ông nầy nữa”. Nhưng tôi nhớ lại lời lẽ của bà ấy, thốt ra nhẹ nhàng với sự tin chắc: “Nếu Đấng Christ đã tha thứ cho tôi vì nhiều tội lỗi của tôi, làm sao tôi không thể tha thứ cho ông ấy chứ?” Và đấy chính xác là những gì bà ấy đã làm. Tôi không biết khi nói như thế bà ấy sẽ phải trả giá nào, nhưng nói như thế thì chẳng dễ dàng chút nào. Quyết định tha thứ của bà ấy đã cứu lấy mối hôn nhân của họ khi nó rất dễ sắp kết thúc.
4. Sự tha thứ phản ảnh bổn tánh của Đấng Christ.
Năm lần [theo bản Anh ngữ] trong trong câu 10 Phaolô sử dụng từ ngữ “tha” hay “tha thứ”.
“Nhưng anh em tha thứ ai, thì tôi cũng tha thứ. Vả, nếu tôi đã tha, là vì anh em mà tha, ở trước mặt Đấng Christ”.
Ông đang nói: “Hết thảy chúng ta cùng nhau có mặt ở chỗ nầy – bạn, tôi và người nào phạm tội”. Hết thảy chúng ta đều đứng trong chỗ có cần đến ân điển của Đức Chúa Trời.
Người kia cần ơn tha thứ.
Bạn cần được tha thứ.
Tôi lấy làm vui sướng tha thứ cùng với bạn.
Có người cho rằng chìa khóa cho sự tha thứ là mẫu tự đứng ở giữa [theo tiếng Anh] – sự tha thứ. Sự tha thứ [forgiveness] là một ơn mà chúng ta ban ra cho người nào không đáng được ơn ấy. Chúng ta không tha thứ vì điều gì đó người ấy đã làm, và không phải vì sự ăn năn của họ đã “kiếm được” ơn tha thứ đâu. Khi bạn bị tổn thương sâu sắc, không một lượng ăn năn nào, bất luận sự ăn năn ấy có chân thành đến đâu đi nữa, có thể “kiếm được” ơn tha thứ. Bạn vẫn phải ban ơn ấy ra, dù là cách thế nào.
Chúng ta sẽ không sống theo phương thức nầy cho tới chừng chúng ta nắm bắt được cụm từ sau cùng của câu 10: "Tôi đã tha ở trước mặt Đấng Christ".
Chúng ta tha vì chúng ta đã được tha.
Chúng ta buông tha cho người khác vì Đấng Christ đã buông tha chúng ta khỏi mọi tội lỗi của mình.
Tình yêu thương che đậy mọi tội lỗi của họ vì tình yêu thương của Đấng Christ đã che đậy mọi tội lỗi của chúng ta.
Sự tha thứ luôn luôn tuôn chảy ra theo cách nầy:
Từ Đấng Christ đến với chúng ta đến với tha nhân.
Chúng ta làm cho tha nhân những điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta. Chúng ta đã được tha; chúng ta biết rõ được tha là giống với điều gì rồi. Bây giờ hãy làm y như thế cho tha nhân. Chúng ta không bị bỏ lại để lấy làm lạ tha thứ cho kẻ làm tổn thương chúng ta có ý nghĩa như thế nào đâu.
Bạn không thể hiểu được tình yêu thương của Đức Chúa Trời trừ phi bạn bước lên thập tự giá.
Bạn không thể hiểu được thập tự giá trừ phi bạn nhìn xem nó bằng tình yêu thương của Đức Chúa Trời.
Tội giết chóc của con người trở thành của lễ của Đức Chúa Trời. Một tội ác cực kỳ độc địa đã trả một món nợ không thể trả nổi. Qua sự chết của một người vô tội, chúng ta kẻ phạm tội được buông tha. Nếu chúng ta có mặt ở đó, mùi hôi thối của sự chết sẽ phỉ khắp chúng ta, nhưng thập tự giá được ngửi thơm tho đối với Đức Chúa Cha. Công tác cứu rỗi sau cùng đã hoàn tất.
Hãy nhìn xem, từ đầu của Ngài, hai bàn tay, hai bàn chân của Ngài. Buồn rầu và yêu thương pha trộn nhau mà tuôn chảy! Tình yêu thương và sự buồn rầu ấy gặp nhau, hay chiếc mão gai tạo ra mão triều thiên phong phú như thế?
Nếu bạn muốn biết tình yêu giống với điều gì, hãy đi đến đồi Gôgôtha rồi nhướng mắt mình nhìn vào nhân vật bị treo trên thập tự giá ở giữa kìa. Hãy học hỏi Ngài đã làm gì và bạn sẽ nhìn biết tình yêu chân thật.
Thế rồi, hãy bước đi và làm cho tha nhân những gì Đức Chúa Trời đã làm cho bạn.
5. Sự tha thứ ngăn trở mọi kế hoạch của Satan.
Phaolô kết thúc lời kêu gọi của ông bằng cách nhắc cho độc giả của mình nhớ tới cái giá cao của sự tha thứ. Chúng ta tha thứ “hầu đừng để cho quỉ Satan thắng chúng ta. Vì chúng ta chẳng phải là không biết mưu chước nó" (câu 11). Từ ngữ “mưu chước” nói tới một chiến lược quân sự. Nó có ý tưởng chỉ ra một lực lượng đặc công kẻ thù dưới sự che chở của bóng đêm lẫn trốn ở đàng sau phòng tuyến của chúng ta rồi dựng lên một căn cứ địa ở đó. Vì chúng ta đang say ngủ, chúng ta không hề nhìn thấy lực lượng ấy đang tới đến. Và đấy chính xác là những gì đã xảy ra cho nhiều Cơ đốc nhân. Sự chúng ta không tha thứ đã để cho Satan dựng lên một “căn cứ địa” trong tấm lòng chúng ta. Thậm chí chúng ta không biết điều gì đang diễn ra nữa, nhưng Satan (kẻ khủng bố thuộc linh) đang tấn công chúng ta khi chúng ta ít mong đợi nhất.
Chúng ta ươm giận không lý do.
Chúng ta mau phê phán quá.
Chúng ta tránh không trao đổi với những người nhất định nào đó.
Chúng ta trưởng dưỡng một nạn nhân trong lý trí.
Chúng ta nói xấu những kẻ làm tổn thương chúng ta.
Chúng ta đâm thẳng vào hạng người vô tội.
Chúng ta nói ra những việc không tử tế và rồi cười nhạo nó.
Chúng ta từ chối không chịu gặp gỡ với một số người nhất định.
Chúng ta suy nghĩ tới “hạng người ấy” cả đêm lẫn ngày.
Chúng ta bị sự cay đắng thiêu nuốt.
Chúng ta biết điều chi là sai nhưng chúng ta không thể chỉ ngón tay mình vào đó.
Sự thể giống như bị cơn sốt rét cấp thấp mà bạn lại cảm thấy quá tồi tệ, tuy chẳng phải bịnh hoạn đủ để khám bác sĩ. Bạn đang đau khổ chỉ vì bạn vẫn có thể hoạt động được, bạn có thái độ rùn vai coi thường, tánh mau nóng và cái lưỡi nhọn hoắc của bạn.
Satan đã thắng lúc ban ngày và bạn thậm chí không biết đến. Cho tới chừng nào bạn xử lý với “căn cứ địa” cay đắng kia, bạn sẽ cứ mãi đau khổ thôi. Và hầu hết mọi người sẽ chọn không đứng ở quanh bạn.
Có lẽ khi chúng ta sửa soạn bước vào năm 2010, bạn nên nhận ra một sự cay đắng, một sự buồn giận, một số vấn đề chưa giải quyết được mà bạn cần phải xử lý với để gạt bỏ “căn cứ địa” của Satan trong đời sống của bạn. Bất luận Chúa tỏ ra cho bạn điều gì, hãy xử lý nó. Hãy xử lý nó đi!
Khi chúng ta đến với phần kết thúc, tôi muốn chỉ ra lòng thương xót của Phaolô không những dành cho người nầy (bất luận người là ai) mà còn dành cho Hội Thánh Côrinhtô nữa. Mặc dù người nầy đã phạm tội rõ ràng chống nghịch Phaolô, ông chẳng tìm cách báo thù. Ông không gọi đích danh ai hết. Ông không nói: “Tôi sung sướng khi anh em lìa bỏ gã ấy”. Thay vì thế, ông nói: “Tôi tha thứ cho người ấy giống như anh em tha thứ cho người để Satan không dựng được căn cứ địa trong Hội Thánh". Đây là sự trưởng thành Cơ đốc thật đang tác động. Mối quan tâm của Phaolô không phải vì tiếng tăm của ông đâu. Ông chỉ muốn Hội Thánh tấn tới về mặt thuộc linh và trở nên giống như Đấng Christ.
Sự tha thứ là phương thuốc của Đức Chúa Trời dành cho một tấm lòng tan vỡ. Sự tha thứ chữa lành những vết thương sâu đậm nhất. Sự tha thứ chỉnh sửa lại những gì ma quỉ đã tàn hại. Sự tha thứ mở ra cánh cửa thậm chí cho những ơn phước lớn lao hơn.
Những người tha thứ mau mắn
Ồ, chúng ta nên trở thành hạng người luôn tha thứ. Ồ, chúng ta nên trở thành “những người tha thứ mau mắn”. Ồ, nguyện tình yêu của Đấng Christ đầy dẫy tấm lòng chúng ta để chúng ta là những kẻ đã được tha thứ, chúng ta sẽ rời rộng tha thứ cho những ai phạm tội nghịch cùng chúng ta.
Nhưng bạn nói: “Tôi không thể làm thế được. Ông không biết họ đã làm gì cho tôi đâu”. Sẽ ra sao nếu Đức Chúa Trời đối xử với bạn y như bạn đối xử với người khác? Bạn đã bị bỏ trong địa ngục rồi.
Sẽ ra sao nếu Đức Chúa Trời không tử tế giống như bạn vậy? Sẽ ra sao nếu Ngài cứ mãi giữ bản ghi chép về mọi tội lỗi của bạn chứ? Bạn sẽ không được tới gần thiên đàng cở hàng triệu dặm đấy.
“Tôi sẽ không xử tệ hắn y như hắn đã xử tệ với tôi”. Sẽ ra sao nếu Đức Chúa Trời nói thế về bạn?
“Tôi không biết mình phải đi bao xa nữa?” Chỉ đi bao xa Chúa Jêsus đã đi vì bạn thôi.
Tôi bắt đầu sứ điệp nầy bằng cách nói tới Ngày Xí Xóa. Người dân trong thành phố Nữu Ước nói rất hay nhưng cái điều tốt nhứt họ có thể ban hiến là tự cải thiện bằng cách băm nhỏ sự buồn rầu của bạn. Cơ đốc giáo còn đi xa hơn và sâu hơn vì nó căn cứ vào mọi sự mà Đấng Christ đã làm cho chúng ta. Sau khi được tha thứ nhiều như thế, với một giá rất lớn như thế, lẽ nào chúng ta không tha thứ cho những kẻ đã làm cớ buồn rầu cho chúng ta? Sự tha thứ dù buộc chúng ta phải trả giá nào (và có khi nó buộc chúng ta phải trả giá bằng cách xử sự rất thâm thúy nữa kìa), có khi nó không buộc chúng ta trả giá với cái giá mà Chúa Jêsus trả khi Ngài bị treo trên thập tự giá, Con của Đức Chúa Trời đã chịu chết vì tội lỗi của một dòng dõi loạn nghịch, Ngài kêu lên: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Luca 23:34).
Nguyện chúng ta biến năm 2010 thành một Năm Xí Xóa, trong đó chúng ta nói vĩnh biệt với buồn giận, cay đắng, đổ thừa, chỉ tay, tự xưng công bình và một tinh thần phê phán, rồi cầu xin Đức Chúa Trời ưng ban cho chúng ta một bổn tánh tươi mới đầy ân điển Ngài trong mọi mối quan hệ của chúng ta.
Nhờ thế chúng ta mới có thể trở nên giống như Chúa Jêsus trong năm sắp đến, đầy dẫy ân điển và lẽ thật, dư dật trong ơn thương xót và mau tha thứ. Lạy Chúa Jêsus, xin buông tha cho chúng con đừng bị buồn giận gậm nhấm nữa để tình yêu của Ngài sẽ tuôn tràn từ chúng con sang một thế giới đang bị tổn thương. Xin dạy chúng con biết tha thứ giống như chúng con đã được tha thứ vậy. Amen.

5 Điều Quyết Tâm Đầu Năm...


5 Điều Quyết Tâm Đầu Năm...
...Dành Cho Cấp Lãnh Đạo Cơ Đốc
Mục sư Rick Warren
Một trong những Phước Lành của Chúa Jêsus thường bị nhiều người hiểu sai có thể là một phước lành quan trọng nhất mà bạn cần nắm lấy trong năm 2010: “Phước cho những kẻ nhu mì, vì sẽ hưởng được đất!” (Mathiơ 5:5). Chúng ta phải thành thật. Nghe thì thật là buồn cười đấy. Bạn nghĩ muốn hưởng được đất trước tiên bạn phải qua mặt được nhiều người khác. Nhưng chúng ta đã đánh mất ý nghĩa thật về sự nhu mì. Nhu mì không có nghĩa là yếu đuối. Chúa Jêsus và Môise được mô tả là nhu mì, và chắc chắn họ là sao đó chớ không phải yếu đuối. Nhu mì thực sự có ý nói tới sức mạnh được đặt dưới sự kềm chế. Từ ngữ nhu mì trong tiếng Hylạp đề cập tới một con ngựa hoang đã được thuần hóa hay một món thuốc có thể chế ngự một cơn sốt rét vậy. Sức mạnh chịu sự kềm chế là một phẩm chất quan trọng của bất kỳ một nhà lãnh đạo Cơ đốc nào. Một nhà lãnh đạo nào (nam hay nữ) không thể kềm chế được sức mạnh của mình không thể nào lãnh đạo người khác làm giống như mình được. Đây là 5 phương thức giúp cho sức mạnh của bạn chịu sự kềm chế trong năm 2010.
1. Khi có ai phục vụ bạn, phải thông cảm, đừng đòi hỏi. Philíp 2:4-5 chép: “Mỗi người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa. Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có”. Hàng ngày, chúng ta thường tương tác với những người phục vụ chúng ta. Thí dụ với người bồi bàn, thư ký, nhân viên bán hàng, người thu ngân, và những người dọn thức ăn nhanh. Một trong những dấu hiệu tốt nhứt của một lãnh đạo Cơ đốc, ấy là biết đối xử với những người đó bằng thái độ lịch sự và tôn trọng. Bạn có thông cảm họ hoặc là có những đòi hỏi quá mức không? Bạn có đòi gặp viên quản lý của họ mỗi lần có gì sai trật trong việc đáp ứng lệnh đặt hàng của bạn? Hay là bạn phản ứng với thái độ đầy ân điển? Các cấp lãnh đạo giỏi không được đánh giá bằng cách người khác phục vụ họ, mà bằng cách họ phục vụ người khác. Thật là dễ đáp ứng với người phục vụ bạn bằng tinh thần đòi hỏi và chỉ trích. Chúng ta được kêu gọi để làm ngược lại. Sự tha thứ phải mau mắn. Lòng tôn trọng phải là qui luật bạn sống theo.
2. Khi có ai đó làm cho bạn thất vọng, hãy cư xử tử tế và đừng xét đoán. Phaolô cho chúng ta biết ở Rôma 14:1 – “Hãy bằng lòng tiếp lấy kẻ kém đức tin, chớ cãi lẫy về sự nghi ngờ”. Phước hạnh đến khi bạn có thể chấp nhận người khác y như con người họ vốn là vậy. Đừng bắt buộc người khác phải đạt tới tiêu chuẩn nhất định nào đó mới được bạn yêu thương. Quí Mục sư ơi, ông phản ứng thế nào khi có ai đó thất bại nặng trong cuộc sống? Có phải ông là người đầu tiên tỏ ra sự xét đoán và phê phán không? Đây là một chi tiết rất đáng buồn. Nhiều người trong chúng ta lấy làm vui cách kín đáo khi thấy những người khác bị thất bại, vì việc ấy khiến cho chúng ta cảm thấy mình như một bậc vĩ nhân thuộc linh. Nhưng nhu mì có ý nói bạn phải sống rất nhân từ và không xét đoán khi người ta làm cho bạn thất vọng. Cái điều làm cho Chúa Jêsus phải buồn lòng hơn bất cứ điều chi khác là hạng người có tôn giáo tự xem mình là công bình và luôn luôn xét đoán người khác.
3. Khi có ai đó bất đồng với bạn, phải mềm mại mà không nhượng bộ. Là Mục sư, có lẽ lúc nầy ông đã nhận ra rằng mình không thể làm cho mọi người trong cuộc sống được vừa lòng. Ngay khi ông có thể làm cho Nhóm A hài lòng, thì Nhóm B bị bực tức. Phút trước ông là anh hùng; phút kế đó ông là con số 0. Chúng ta phải mềm mại song không nhượng bộ. Một trong những thử nghiệm quan trọng nhất về sự trưởng thành thuộc linh là cách ông vận dụng được những người bất đồng với ông, mâu thuẫn với ông, và chọc tức ông. Ông có ba cách ứng xử để chọn: Ông có thể lui lại trong lo sợ. Ông có thể tấn công với sự giận dữ. Ông có thể đáp ứng trong tình yêu thương. Nhu mì không có nghĩa là đem những điều mình tin chắc ra mà thỏa hiệp. Đừng thụ động và luôn chìu theo đường lối của người khác. Đấy chẳng phải là nhu mì; đó là sự yếu đuối. Ông cũng không cần phản ứng trong sự giận dữ. Đừng nổi sung thiên khi có ai đó bất đồng với ông. Ý thứ ba luôn luôn là tốt nhứt. Kinh Thánh chép ở II Timôthê 2:24-25 rằng nhu mì là một đức tính dành cho chức vụ lãnh đạo thuộc linh: “Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh...nhưng phải dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật”. Mục sư ơi, ông là người thế nào trong lãnh vực nầy? Có phải ông thích tranh cạnh không? Chúng ta cần phải mềm mại mà dạy dỗ dân sự của mình và hy vọng Đức Chúa Trời sẽ thay đổi lòng họ.
4. Khi có ai đó đến chỉnh sửa ông, phải chịu sự dạy dỗ thay vì như người mà không ai có thể đến gần. Nhu mì là một tinh thần dễ dạy. Nhiều người trong chúng ta sử dụng đời sống mình lo dạy dỗ người khác nhưng lại gặp khó khăn khi chính mình cần được sửa dạy. Điều đó thật đáng buồn. Các cấp lãnh đạo Cơ đốc nhu mì không giả vờ như mình biết hết mọi sự. Họ biết rằng họ không cần phải như vậy đâu. Giacơ 1:19 chép: “Hỡi anh em yêu dấu, anh em biết điều đó: người nào cũng phải mau nghe mà chậm nói, chậm giận”. Mục sư ơi, chữ ‘người nào’ bao gồm luôn cả ông đấy. Khi có người từ hội chúng của ông đưa ra ý xây dựng cho ông, ông sẽ sử sự với việc ấy như thế nào? Có phải ông bồn chồn và tìm cách biện hộ? Hạng người nhu mì biết mình không có tất cả những câu trả lời. Thật vậy, ông nên thận trọng với những kẻ nghĩ rằng họ có tất cả những giải đáp. Cấp lãnh đạo nhu mì cũng cỡi mở trước những tư tưởng mới. Họ sẵn sàng thay đổi khi họ học được điều gì mới.
5. Khi có ai gây tổn thương cho ông, ông phải là một diễn viên (actor) thay vì là một phản lực viên (reactor). Ông sẽ bị tổn thương trong chức vụ. Đây chẳng phải là vấn đề “nếu”; đây là vấn đề “khi nào”. Cách ông phản ứng khi bị tổn thương sẽ tạo ra một sự khác biệt lớn lao trong chức vụ của ông. Rôma 12:21 chép: “Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác". Chúng ta phải lấy tình yêu thương đáp ứng với tổn thương, chớ không phải sự ăn miếng trả miếng. Trả đủa là phản ứng. Nhưng hãy phản ứng bằng sự tha thứ, dù khi đối phương không yêu cầu được thứ tha, nhờ đó bạn đã nắm lấy quyền chủ động. Khi có người nói: “Ông làm cho tôi phải nổi khùng lên!” họ đang nhìn nhận rằng người khác có quyền kiểm soát trên cảm xúc của chính họ. Đấy là một tình trạng yếu đuối – chớ không phải là nhu mì. Giây phút mà ông khởi sự tìm cách trả thù, ông đã đánh mất quyền điều khiển cuộc đời của mình rồi. Chúa Jêsus dạy rằng người nhu mì biết cách để cho sự việc ấy trôi qua. Chúa Jêsus muốn nói gì khi Ngài hứa: “Phước cho những kẻ nhu mì, vì sẽ hưởng được đất”? Người nhu mì là người kiểm soát được hoàn cảnh và không bị hoàn cảnh làm chủ trên họ. Nếu ông là một người nhu mì, ông không còn là một nạn nhân nữa đâu. Ông đang kiểm soát được những sự lựa chọn của mình. Victor Frankl, nhà tâm thần học nổi tiếng từng nếm trải trại tập trung Auchwitz đã nói: “Họ tước hết y phục của tôi, vợ con, và chiếc nhẫn cưới của tôi. Tôi đứng đó trần truồng trước những tên SS và tôi ý thức được rằng họ có thể tước hết mọi sự trong cuộc đời của tôi, nhưng họ không thể tước được quyền tự do lựa chọn cách mà tôi phản ứng với họ”.
Đấy là sự tự do thật. Ông còn muốn gì hơn nữa trong năm 2010?